2034: Cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến tranh thế giới tiếp theo

PHẦN I: HIỂM HỌA Ở BIỂN NAM TRUNG HOA– BIỂN ĐÔNG

BIỂN ĐÔNG

14:47 12/3/2034 (GMT+8)

Biển lặng, gây kinh ngạc ngay cả với những người đã 24 năm bôn ba trên biển như bà. Một sự yên tĩnh tuyệt đối từ chân trời này đến chân trời kia, như một tấm khăn trải bàn bằng vải lanh. Nếu có một cái kim rơi xuống nó cũng sẽ lặng lẽ xuyên xuống đáy biển và nằm yên dưới đó, không gây bất cứ một xáo trộn nào.

Đã bao lần bà đứng đây, trên cầu tàu, quan sát sự bình an màu nhiệm này. Một ngàn lần. Hay hai ngàn lần? Trong một đêm mất ngủ, bà đã lục nhật ký và thử cộng lại tất cả những ngày mình xa đất liền. Tổng cộng gần 9 năm. Ký ức chạy dài qua những năm tháng đó, từ ngày bà thực tập quan trắc, đứng trên bong lát gỗ của chiếc tàu quét mìn với động cơ diesel cứ hồng hộc như lên cơn suyễn, qua giai đoạn chiến tranh đặc biệt ở những vùng nước đục ngầu tranh chấp của thế giới, đến ngày hôm nay chỉ huy 3 chiếc khu trục hạm lớp Arleigh Burke chạy với tốc độ 18 hải lý một giờ theo hướng Nam-Tây Nam dưới ánh mặt trời gay gắt không thương tiếc.

Đội tàu của bà đang ở cách Dải Vành Khăn 12 hải lý, trong vùng biển tranh chấp ở Trường Sa để thực thi “quyền tự do hàng hải”. Bà ghét thuật ngữ giả dối mà giới quân sự hay dùng này. Mục tiêu thực chất của cuộc hành quân này đơn giản là khiêu khích. Đây là vùng biển quốc tế, ít nhát là theo các luật hàng hải đang có, nhưng Trung Hoa đang công bố là của họ. Điều khiển đội tàu đi qua vùng biển Trường Sa như thế này tương đương về mặt pháp lý với việc lái xe đánh võng trước sân cỏ nhà hàng xóm vì ông ta cứ lấn dần hàng rào về phía nhà ta. Chính quyền Trung Quốc đã thực hiện việc “lấn hàng rào” đó hàng chục năm, chắc là cho đến khi họ chiếm cả vùng Nam Thái bình dương.

Bởi thế, đã đến lúc lái xe quậy vườn nhà họ. Hay là mình gọi thẳng như thế nhỉ, bà khẽ nhếch mép. Lái xe quậy thay vì Tuần tra vì tự do hàng hải. Ít nhất là đám thủy thủ đỡ phải đau đầu là họ ở đây làm gì.

Bà quay lại, bám đuôi soái hạm John Paul Jones là 2 khu trục hạm Carl Levin và Chung-Hoon đang hành tiến theo đội hình tác chiến. Bà là chỉ huy của đội tàu này, cùng 4 chiếc nữa đang nằm tại căn cứ ở San Diego. Bà đang ở đỉnh cao của sự nghiệp. Thuyền trưởng Sarah Hunt, chỉ huy hải đội khu trục số 21 – Solomons Onward, với danh xưng từ chiến tranh thế giới thứ hai “Những con sư tử hung hăng”. Còn trên bảng tên của 7 con tàu thuộc hải đội, bà được gọi một cách yêu quí là “Sư tử hậu”

Bà đứng trầm tư, tưởng tượng mình ẩn hiện trong những con sóng tạo ra ở đuôi tàu. Bà mới nhận được thông báo của Hội đồng Y khoa, ngay trước khi nhổ neo rời cảng Yokosuka. Nghĩ đến chiếc phong bì cộm trong túi áo, cái đau nhói lên ở chân trái và nhanh chóng lan đến xương cùng cột sống. Vết chấn thương cũ cuối cùng đã khuất phục được bà. Hội đồng đã quyết định đây là chuyến ra biển cuối cùng của bà. Hunt không thể tin vào điều đó.

Trời bỗng dịu lại bất ngờ. Một bóng dài lướt qua mặt biển bỗng gợn sóng vì làn gió nhẹ ở đâu đó. Hunt ngẩng đầu lên và thấy một vầng mây mỏng tang đang trôi qua, rồi từ từ biến thành sương mờ dưới sức nóng của mặt trời. Mặt biển tĩnh lặng trở lại.

Những bước chân nhẹ nhàng, vang vang nhưng vội vã leo lên cầu tàu cắt đứt những suy nghĩ của bà. Hunt nhìn đồng hồ. Thuyền trưởng Jane Morris, lại chậm như thường lệ.

EO HORMUZ

10:51, 12/3/2034 (GMT+4:30)

Thiếu tá Chris “Wedge” Mitchell gần như không thấy cảm giác gì.

Bố ông có cảm xúc hơn một chút, khi hệ thống dẫn đường hồng ngoại bị hỏng, ông phải ném hai quả bom GBU-38 “gần quá mức” vào đám phiến quân ở Ramadi, mà chỉ dùng máy đo GPS bằng tay và bản đồ.

“Pop”, ông của ông có cảm xúc hơn cả cả hai, khi dùng mắt thường thả bom bi và napal trong 5 ngày liền lên những cánh rừng dịp Tết, trong chiếc A4-Giặc Nhà trời bay thấp đến mức lửa bom táp cả lên thùng dầu.

“Pop-pop”, ông cố của ông, Thiếu tá Gregory “Pappy” Boyinton, uống rượu khỏe, đánh giỏi, có lẽ là có cảm giác tốt nhất, khi lái chiếc VMF-214 săn các Con ma Nhật bản ở phía Nam Thái Bình dương, trong biên chế của phi đội Cừu đen nổi tiếng của Hải quân.

Điều khiến 4 thế hệ của Mitchell gắn với ghế lái là cảm giác được bay thô, dựa hoàn toàn vào trực giác. “Khi ông bay tuần tra với Pappy, chẳng có gì giống như bọn trẻ có bây giờ. Không có máy tính, không có chế độ bay tự động. Chỉ có thể dựa vào kỹ năng của phi công, khả năng kiểm soát và may mắn. Bọn ông đánh dấu các mục tiêu bằng bút chì mỡ lên kính bay, và thế là bay. Phải nhanh chóng học cách quan sát đường chân trời. Phải còn quan sát cả Pappy nữa. Khi ông ấy nhổ điếu thuốc ra khỏi ca bin và kéo mũ xuống, tức là sắp đánh nhau với bọn Nhật.”

Lần cuối cùng khi Wedge nghe được ông mình nói là lúc 6 tuổi. Lúc đó ông đã hơn 90 tuổi mà giọng cũng vẫn chỉ hơi rè một chút. Nắng lấp lánh trên kính bay, Wedge có thể nghe rõ như là ông đang ngồi ở ghế sau, mặc dù chiếc F-35E Tia chớp của anh chỉ có 1 chỗ ngồi.

Đó là một trong những sức ép mà Wedge phải chịu đựng khi lái phi cơ của mình nhảy múa dọc theo không phận của Iran. Không phải vì phải xử lý gì khó khăn. Hành trình bay đã được cài sẵn trong máy tính và máy bay bay tự động. Anh thực tế không phải làm gì ngoài việc quan sát các đồng hồ, ngắm trời mây và lắng nghe tiếng nói dường như của ông mình ở ghế sau không tồn tại.

Đằng sau đầu đầu ghế, bộ pin dự phòng kêu o o, hơi quá ồn, thậm chí hơn cả tiếng động cơ. Bộ pin này, cỡ bằng hộp giày, cung cấp năng lượng cho mấy bổ sung công nghệ tàng hình mới. Không ai nói cho Wedge về tính năng mới này là gì, hình như là mấy cái máy phá sóng. Trước khi nhận nhiệm vụ, anh thấy có hai nhân viên dân sự của hãng Lockheed lọ mọ gì đó dưới gầm máy bay của mình. Xưa đến nay chưa có nhân viên dân sự nào được lên tàu sân bay George H.W. Bush. Anh đã báo cáo với chỉ huy và được giải thích có những công nghệ mới, rất bí mật và họ được phép làm việc đó. Có vẻ như đó là điềm báo gì đó, nhưng ngoài ra mọi sự đều rất suôn sẻ.

Thậm chí là quá suôn sẻ. Nên thành vấn đề. Wedge thấy buồn tẻ kinh khủng. Anh nhìn xuốn dưới. Eo Hormuz như một dải bạc chi chít vũ khí, chia cách Bán đảo Arab và Persia. Anh nhìn đồng hồ, chiếc đồng hồ hiệu Breitling có gắn la bàn và máy đo độ cao mà bố anh đã đeo khi oanh tạc Marjah 25 năm trước. Anh tin chiếc đồng hồ này hơn máy tính trên máy bay. Nhưng cả 2 đều nói rằng, còn 43 giây nữa sẽ đến điểm rẽ 6 độ sang phía Đông để tránh rơi vào không phận Iran. Tại điểm đó, nếu cái máy dưới đầu anh hoạt động bình thường, máy bay của anh sẽ biến mất. Như không có chuyện gì xảy ra.

Thật trớ trêu là anh được tin cậy sử dụng trong một phi vụ công nghệ cao như thế này. Các đồng đội trong phi đội thường đùa là anh đáng ra phải được sinh ra sớm hơn. Vì thế mà tên chiến đấu của anh được đặt là Wedge – Cái Nêm – công cụ đầu tiên và đơn giản nhất của loài người.

Đã đến chỗ rẽ 6 độ. Wedge tắt chế độ bay tự động. Anh biết sẽ phải trả giá đắt khi bay thủ công, nhưng anh sẽ chịu đựng khi về hạ cánh xuống tàu. Còn bây giờ anh muốn cảm nhận. Dù chỉ là 1 giây, dù chỉ là 1 lần trong đời. Dù có phải tủi nhục thế nào.

Và thế là với tiếng o o dưới đầu, anh cùng phi cơ lặn vào không phận Iran.

BIỂN ĐÔNG

14:58 MARCH 12, 2034 (GMT+8)

 “Bà muốn gặp tôi, thưa chỉ huy?”

Đại úy Jane Morris, thuyền thưởng John Paul trông có vẻ quá mệt mỏi để xin lỗi vì việc luôn chậm 15 phút khi gặp Hunt, người rất hiểu những sức ép mà Morris phải chịu, nhờ đã từng không ít lần trải qua nó. Đó là sức ép phải điều khiển con tàu đúng lộ trình, trách nhiệm với gần 400 thủy thủ, và thuyền trưởng thường xuyên bị gọi lên cầu tàu để chỉ huy con tàu luồn lách tránh vô khối những thuyền đánh cá ở Biển Đông. Người ngoài có thể cho rằng Hunt phải chịu sức ép gấp ba, nhưng cả Hunt và Morris đều hiểu là chỉ huy hải đội là ủy quyền, còn chỉ huy con tàu là trực tiếp. Đơn độc chịu trách nhiệm cho tất cả mọi việc xảy ra trên con tàu của mình.

Hunt rút 2 điếu xì gà từ túi dết.

“Cái này của ai vậy?” Morris hỏi

“Một lời xin lỗi. Của Cuba đấy. Bố tôi thường mua chui từ các thủy thủ ở Gitmo. Giờ thì có thể mua đàng hoàng, lại mất vui. Ngon lắm”. Morris là một con chiên ngoan đạo, thậm chí còn âm thầm truyền đạo, nên Hunt cũng không chắc là cô sẽ hào hứng thử. Bởi thế bà khá vui khi Morris cầm điếu xì gà và bước lên đứng cạnh Hunt trên cầu chỉ huy để xin lửa.

“Một lời xin lỗi à? Vì gì vậy?” Morris vừa hỏi vừa châm điếu xì gà vào ngọn lửa từ chiếc Zippo của Hunt, trên đó khắc những con ếch vừa rít xì gà vừa cầm tiểu liên, vốn hay được xăm lên ngực và vai của lực lượng đặc biệt hải quân SEAL. Chiếc bật lửa này được bố Hunt truyền lại cho con gái duy nhất của mình.

 “Tôi cho là cô cũng không hào hứng lắm khi biết rằng tôi đã chọn Paul Jones làm soái hạm”. Hunt vừa nói vừa châm thuốc cho mình. Khói thuốc bay ra sau khi con tàu tiếp tục tiến lên. “Tôi không muốn cô nghĩ rằng lựa chọn đó là một lời chê trách. Hơn nữa vì chỉ có chúng ta phụ nữ, tôi cũng không muốn cô nghĩ là tôi muốn bao bọc cô khi đặt cờ soái hạm ở đây.” Hunt nói và theo bản năng liếc nhìn lên cột buồm nơi cờ chỉ huy của bà đang phất phới.

“Thẳng thắn nhé!”

“Nói đi Jane, đừng khách sáo.  Đây không phải là học viện.”

“Ok, madam, tôi không hề có ý gì, thậm chí cũng chẳng nghĩ về chuyện đó. Bà có 3 con tàu tốt với 3 thủy thủ đoàn hảo hạng. Bà cần phải ở đâu đó. Thực ra chúng tôi cũng có tí vui mừng khi nghe tin có Sư tử Hậu trên boong của mình.”

“Có lẽ sẽ tệ hơn, nếu tôi là đàn ông và các cô sẽ phải sống với Vua Sư tử”

Morris cười phá lên

“Nếu tôi là Vua Sư tử, cô sẽ là Zazu” Hunt cười tinh nghịch, nụ cười đã xóa nhòa bao nhiêu khoảng cách với nhân viên của mình.

Điều đó đã khuyến khích Morris, nói thêm, có lẽ nhiều hơn thường lệ: “Nếu chúng ta là đàn ông còn Levin và Hoon do 2 phụ nữ chỉ huy, liệu chúng ta có nói chuyện thoải mái như thế này?”

Morris im lặng như một câu trả lời.

“Có lẽ cô đúng,” Hunt rít một hơi thuốc, dựa vào cầu tàu, nhìn ra chân trời, mặt biển vẫn bình yên kỳ lạ.

 “Chân bà thế nào rồi?” Morris hỏi

“Vẫn tốt như xưa”, Hunt thò tay xuống đùi. Bà không chạm đến vết gãy xương trong một lần tập luyện cách đây hơn chục năm. Lỗi mở dù, suýt nữa đoạt mạng bà, đã kết thúc sự nghiệp của bà như 1 phụ nữ đầu tiên của SEAL (Đội đặc nhiệm của Hải quân Mỹ – NTN). Thay vào đó, các ngón tay bà lần mò bức chứng thư của Hội đồng Y khoa trong túi quần.

Họ hít đến gần hơi cuối cùng khi Morris phát hiện ra cái gì đó trên đường chân trời. “Bà có thấy khói không?” Họ dập thuốc đi để nhìn cho rõ hơn. Morris vào buồng lái và mang ra 2 chiếc ống nhòm.

Giờ thì họ đã nhìn rõ rồi. Một con tàu đánh cá, dài tầm 30 mét, sàn thấp để dễ thu lưới, mũi cao để lướt đỉnh sóng. Cột khói đen đặc bốc lên ở đuôi tàu, đằng sau đài chỉ huy và cần cẩu kéo lưới. Thấp thoáng ngọn lửa. Trên bong tàu, tầm chục người từ thủy thủ đoàn đang cố gắng dập lửa một cách hỗn loạn.

Hạm đội đã được huấn luyện tình huống khi gặp một con tàu bị nạn. Đầu tiên họ kiểm tra xem có tàu nào ở gần đến ứng cứu không? Nếu không, họ sẽ khuyếch đại các tín hiệu cấp cứu và hỗ trợ cứu nạn. Điều mà họ sẽ không làm, hoặc là chỉ làm khi không còn cách nào khác, là trực tiếp cứu nạn.

 “Cô có nhìn thấy quốc tịch tàu không?”, Hunt vừa hỏi vừa khởi động “cây” ra quyết định trong đầu mình.

Morris báo cáo không thấy bất cứ lá cờ nào cả ở mũi và đuôi tàu, rồi quay vào đài chỉ huy để kiểm tra với sĩ quan trực, một thanh niên béo tốt có những lọn tóc vàng mịn, có nhận được tín hiệu cứu nạn nào gần nhất không.

Sĩ quan trực kiểm tra sổ trực ban, kết nối với trung tâm thông tin chỉ huy, bộ não điện tử của tàu ở tầng dưới, và kết luận không phát hiện được tín hiệu cấp cứu nào. Trước khi Morris ra lệnh cho sĩ quan phát tín hiệu cấp cứu hộ tàu cá, Hunt đã bước vào và ngăn cô lại.

“Chúng ta sẽ chuyển hướng để cứu họ!” Hunt ra lệnh.

“Chuyển hướng?” Morris thốt lên kinh ngạc. Đến nỗi tất cả trên cầu tàu đều xoay về phía chỉ huy của mình. Họ hiểu rất rõ lang thang ở đây là rất dễ va chạm với tàu của Hải quân Trung quốc. Nhưng thủy thủ đoàn được huấn luyện tốt, họ đã tập trung ở phòng họp và đợi lệnh.

“Chúng ta thấy một con tàu có vẻ như đang gặp nạn, nhưng không treo cờ hiệu và không gửi tín hiệu cầu cứu. Có gì đó không ổn!”

Morris ra lệnh rõ ràng cho thủy thủ đoàn, như một dàn hợp xướng mà cô đã tập luyện nhiều năm mà chưa bao giờ được biểu diễn. Các thủy thủ tản ra khắp nơi, tìm thiết bị cứu hộ, đeo mặt nạ chống độc, áo chống cháy, đóng các cửa, kích hoạt hệ thống chiến đấu, bao gồm bộ máy tàng hình che dấu sóng hồng ngoại và rada của tàu.

Trong khi John Paul đổi hướng tiến gần tới tàu cá bị nạn thì Levin và Hoon vẫn tiếp tục hành trình bảo vệ tự do hàng hải. Khoảng cách giữa chúng và soái hạm bắt đầu nới rộng. Hunt vào phòng chỉ huy, đánh điện mật cho Sở chỉ huy Hạm đội Bảy tại Yokosuka. Kế hoạch của họ có sự thay đổi.

04:47 MARCH 12, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Tiến sĩ Sandeep “Sandy” Chowdhury, trợ lý cố vấn An ninh Quốc gia, ghét ngày thứ Hai thứ hai và thứ tư hành tháng. Vào ngày đó, theo thỏa thuận ly hôn, con gái 6 tuổi của ông Ashni, sẽ về với mẹ. Vấn đề là ở chỗ phải đến cuối buổi học mới bàn giao, nên ông sẽ phải chịu trách nhiệm về mọi việc có thể xảy ra vào một ngày lạnh lẽo này. Và trong ngày thứ Hai cụ thể hôm nay, ngày mà ông phải trực trong Phòng Tình huống của Nhà Trắng để theo dõi chuyến bay thử nghiệm nhạy cảm ở Eo Hormutz, ông phải gọi điện nhờ mẹ, bà Lakshmi Chowdhury đến căn hộ của ông ở Logan Circle. Bà đến trước khi mặt trời mọc để trông Ashni.

“Đừng quên điều kiện của mẹ đấy,” bà dặn con trai đang thắt lại cà vạt. “Con không quên đâu, con sẽ quay lại đúng giờ để đón Ashni”. Điều kiện của bà mẹ là bà không muốn nhìn thấy mặt con dâu cũ Samantha, người từ vùng Vịnh Texas, mà bà coi là nhà quê. Bà không thích ngay từ ngày đầu nhìn thấy dáng vẻ mảnh mai, tóc vàng cắt kiểu con trai của cô ta. Kiểu MC truyền hình Ellen Degeneres khốn khổ mà bà không thể hiểu nổi.

Sự xấu hổ vì độc thân và phải nhờ vả mẹ ở tuổi 44 của ông biến mất khi ông rút tấm thẻ có thể ra vào khắp nơi ở nhà trắng dí vào mặt các mật vụ bảo vệ ở cổng Tây Bắc. Một cặp vợ chồng chạy bộ buổi sáng dừng lại ngắm nghía để đoán xem ông là nhân vật nào. Chỉ trong 18 tháng gần đây, khi ông bắt đầu nhận vị trí ở Cánh Tây của Nhà Trắng, mẹ ông mới bắt đầu đính chính khi mọi người nhầm con trai bà, Tiến sĩ (Dr) Chowdhury là bác sĩ y khoa (Medical Doctor)

Mẹ ông đòi đến nơi làm việc mấy lần, nhưng ông từ chối. Nghe thì oách, chứ văn phòng thực tế bên Cánh Tây chỉ là 1 cái ghế dán mặt vào tường hầm đông đặc nhân viên. Hôm nay ông đến sớm, tận hưởng sự vắng vẻ. Chưa ai đến văn phòng khi tuyết gần như làm tê liệt thủ đô. Ông rút ngăn kéo, lấy ra một thanh kẹo năng lượng nhàu nhĩ nhưng vẫn có vẻ ăn được, cầm cốc café đi qua cánh cửa cách âm của Phòng Tình huống.

Ông có một chỗ ngồi có màn hình cài sẵn, ở đầu bàn họp. Đằng kia phòng là màn hình LED lớn có bản đồ các lực lượng quân sự của Mỹ ở hải ngoại, với đường liên lạc video mã hóa với chỉ huy sở Phía Nam, Trung tâm, Phía Bắc và Còn lại. Ông tập trung vào Bộ chỉ huy Ấn Độ-Thái Bình Dương, khu vực rộng lớn và quan trọng nhất, chiếm 40% diện tích bề mặt trái đất, mặc dù đa phần là đại dương.

Người báo cáo là Chuẩn Đô đốc John T. Hendrickson, một chỉ huy tàu ngầm hạt nhân mà Chowdhury có quen biết, mặc dù chưa làm việc trực tiếp. Trợ tá cho đô đốc là 2 sĩ quan, một nam một nữ đều cao hơn hẳn ông ta. Đô đốc và Chowdhury đều làm luận văn Tiến sĩ tại Trường Luật và Ngoại giao Fletcher 15 năm trước. Nhưng không có nghĩa họ là bạn của nhau vì chỉ trùng nhau một năm. Chow biết đến Hendrickson vì năng lực của ông này. Chỉ cao khoảng 1m65, ông này như được sinh ra cho tàu ngầm. Óc suy đoán và phân tích của ông cũng rất phù hợp cho binh chủng hải quân đặc biệt này. Hendrickson hoàn thành luận văn tiến sĩ trong 3 năm (trong khi Chow mất 7 năm), tiện thể dẫn dắt đội softball của Fletcher 3 lần vô địch Boston, mang lại cho ông tên lóng “Bunt-Húc”

Chow suýt nữa thì gọi Hendrickson bằng tên lóng, nhưng kịp dừng lại. Cần nghiêm túc. Màn hình lấp lánh chỉ ra những vị trí tiền phương của quân đội Mỹ. Một nhóm tàu đổ bộ ở Aegean, nhóm tàu sân bay tại Tây Thái Bình dương, 2 tàu ngầm nguyên tử dưới lớp băng Bắc cực, một vòng các căn cứ từ Tây sang Đông bảo vệ Trung Âu khỏi sự xâm lược của Nga từ gần 100 năm nay. Hendrickson nhanh chóng tập trung vào 2 sự kiện quan trọng, một có kế hoạch từ lâu và một đang bất ngờ xảy ra.

Sự kiện đươc lên kế hoạch là việc thử nghiệm hệ thống chế áp điện tử trên F35 tàng hình. Thử nghiệm đang diễn ra và kết quả sẽ có sau vài tiếng nữa. Phi cơ cất cánh từ tầu George Bush ở Vịnh Arab và “đã biến mất trong không phận Iran 4 phút”, Hendrickson nhìn đồng hồ rồi giải thích dài dòng về thế nào là chế áp điện tử, bí mật tuyệt đối ra sao…

Chỉ sau vài câu, Chow đã thấy hoang mang. Ông không có năng lực tập trung vào chi tiết, nhất là các vấn đề kỹ thuật. Bởi thế mà ông đi vào chính trị. Cũng bởi thế mà tại sao Hendrickson, rất thông minh, lại phải làm việc và báo cáo cho ông, điều mà nhiều sĩ quan ở Nhà trắng lấy làm khó chịu thừa nhận. Tài năng của Chow là trực giác tìm ra lời giải tốt nhất trong hoàn cảnh xấu. Ông đã bắt đầu sự nghiệp chính trị với tổng thống một nhiệm kỳ Pence. Ai có thể nói ông không phải là người sống sót.

 “Tình huống thứ hai đang diễn ra”, Hendrickson báo cáo tiếp. “Tàu chỉ huy John Paul Jones đã chuyển hướng khỏi nhiệm vụ tuần tra bảo đảm hàng hải ở Trường Sa để ứng cứu một phương tiện bị nạn.”

“Phương tiện gì vậy?” Chow hỏi. Ông ngả người trên ghế bành bọc da, chiếc ghế mà đích thân tổng thống sẽ dùng nếu bà ở đây, nhấm nháp thanh kẹo năng lượng.

“Chúng tôi chưa biết, đang đợi cập nhật từ Hạm đội Bảy”

Mặc dù Chow không theo kịp chi tiết của vụ chế áp tàng hình F35, ông hiểu rằng, việc một tàu khu trục trị giá 2 tỷ đô được điều để ứng cứu một con tàu ma trên lãnh hải mà Trung Quốc đang đòi chủ quyền, có khả năng gây rắc rối cho ông trong buổi sáng hôm nay. Trong mọi trường hợp, phá vỡ đội hình trên mặt biển không phải là một ý hay.

“Có vẻ không ổn, Bunt. Ai là chỉ huy tại thực địa?”

Hendrickson ngoảnh lại. Có vẻ như đô đốc nhận thấy sự khiêu khích của Chow khi dùng nickname cũ. Hai viên trợ lý tỏ ra e ngại, nhưng Hendrickson bỏ qua. “Tôi biết chỉ huy. Thuyền trưởng Sarah Hunt. Bà ấy rất có năng lực. Đỉnh cao mọi nhẽ.”

“Thi sao?” Chow hỏi

“Thì chúng ta có thể không quá phải lo lắng cho bà ta.”

15:28 MARCH 12, 2034 (GMT+8)

BIỂN ĐÔNG

Thủy thủ đoàn John Paul Jones nhanh chóng triển khai mệnh lệnh hỗ trợ tàu cá. Hai xuồng bơm hơi được hạ thủy và áp sát mạn con tàu đang cháy. Viên thuyền phó tóc vàng chỉ huy tại chỗ và báo cáo qua radio cho Hunt và Morris đang quan sát từ cầu tàu. Cả hai vị chỉ huy đều tỏ ra thông cảm với chút lúng túng của viên sĩ quan mới này. Anh ta đang dùng 2 máy bơm và 2 vòi nước để dập đám cháy trên một con tàu xa lạ, ở vùng biển thù địch.

Thù địch, nhưng rất bình yên, như mặt kính lớn phản chiếu đám cháy đang xảy ra bập bùng khoảng 200m gần đó. Hunt bâng khuâng ngắm biển, tự hỏi đây có phải là lần cuối cùng mình thấy biển bình yên như thế này, hay ít nhất là lần cuối cùng từ đài chỉ huy một con tàu quân sự. Sau khi suy nghĩ một chút, bà quay sang ra lệnh cho sĩ quan trực, gửi tín hiệu cho hai chiếc khu trục hạm còn lại, yêu cầu bỏ kế hoạch, chuyển hướng đến đám cháy. Có lẽ cần bổ sung một chút hỏa lực.

Levin và Hoon quay đầu và tăng tốc, chỉ mấy phút sau đã chiếm lĩnh vị trí chiến đấu hỗ trợ John Paul đang lừ lừ tiến lại con tàu cháy. Chẳng mấy chốc, viên sĩ quan trẻ đã dập tắt lửa trên tàu cá và vui mừng báo cáo với chỉ huy. Hunt và Morris chúc mừng anh ta và ra lệnh lên tàu để đánh giá thiết hại. Anh vội vàng tuân lệnh, hay ít nhất là cố gắng tuân lệnh.

Thủy thủ đoàn của tàu cá tiếp đón những vị khách định lên tàu bằng những tiếng hét giận dữ. Một thành viên còn đi xa hơn, quăng cái móc lên đẩy thuyền bơm hơi ra. Hunt khá ngạc nhiên, không hiểu sao họ lại chống đối những người giúp đỡ như vậy. Qua radio, bà nghe thấy có vẻ như thuyền viên tàu đánh cá nói tiếng Hoa.

“Madam, có lẽ chúng ta kệ họ đi. Có vẻ họ không cần sự giúp đỡ nữa.” Morris đề nghị.

“Tôi thấy điều đó, Jane. Nhưng vấn đề là tại sao họ lại làm như vậy?”

Bà thấy rõ hai bên đang chỉ trỏ buộc tội nhau một cách hỗn loạn. Tại sao họ lại chống đối nhỉ. Bà hiểu quan điểm của Morris: mỗi phút chần chừ là tăng khả năng va chạm với hải quân Trung quốc, làm hỏng nhiệm vụ của họ. Nhưng chẳng phải nhiệm vụ của cuộc tuần tra là bảo đảm vùng biển này an toàn để di chuyển? 10 năm hoặc thậm chí mới chỉ 5 năm trước, các mối đe dọa nhỏ hơn nhiều. Những hiệp ước từ thời chiến tranh lạnh vẫn được tuân thủ. Nhưng giờ đã khác. Và khi ngắm chiếc tàu cá và thủy thủ đoàn bướng bỉnh này, trực giác mách cho Sarah Hunt rằng bản thân con tàu này là một mối đe dọa.

“Thuyền trưởn Morris, hãy áp sát mạn tàu cá. Nếu chúng ta không thể lên được từ thuyền hơi. Chúng ta sẽ lên từ tàu khu trục.”

Morris ngay lập tức phản đối: thứ nhất, mất thời gian là tăng khả năng va chạm với kẻ thủ, thứ hai, áp sát mạn có thể gây nguy hiểm cho khu trục hạm “có giời mới biết trên tàu có có gì.”

Hunt kiên nhẫn lắng nghe. Bà có thể cảm thấy thủy thủ đoàn vẫn đang làm việc, cố gắng bỏ qua sự bất đồng giữa hai vị chỉ huy. Sau đó bà nhắc lại mệnh lệnh và Morris chấp hành.

Khi John Paul tiến lại gần, Hunt có thể nhìn thấy tên con tàu Wen Rui, xuất phát từ Quảng Châu, một cảng nằm trên eo biển Đài Loan. Các thủy thủ quăng móc lên con lươn tàu và dùng cáp thép ép con tàu cá vào sườn. Hai chiếc tàu kèm nhau rẽ sóng như một chiếc mô tô và cái thùng ngang bướng. Quá nguy hiểm. Các thủy thủ của khu trục hạm yên lặng quan sát, có vẻ không đồng tình với việc chỉ huy của họ mạo hiểm cả một con tàu với một nhóm đánh cá người Hoa đang bị kích động. Nhưng không ai nói thành lời mong muốn để vị tư lệnh của họ hãy quên linh cảm đi, và đưa họ về vùng nước an toàn.

Cảm thấy sự bất đồng, Hunt tuyên bố là bà sẽ xuống bong. Mọi người nhớn nhác.

“Madam, bà định đi đâu?” Moris phản đối, phẫn nộ khi thấy vị chỉ huy định bỏ rơi mình trong tình huống nhạy cảm này.

“Tôi sẽ sang Wen Rui. Tôi muốn trực tiếp kiểm tra.”

Và bà làm thế thật, cầm lấy khẩu súng lục từ viên sĩ quan tùy tùng đang kinh ngạc, đút vào bao, bỏ qua cái chân đau bỗng nhói lên. Khi bà đặt chân lên tàu cá, lính của bà đã bắt giữ gần chục thủy thủ đoàn của Wen Rui. Họ bị bắt ngồi xếp bằng trên sàn tàu, mũ sụp xuống, quần áo lấm lem dầu mỡ, hai tay bị còng ra sau, dưới họng súng giám sát. Thấy Hunt, một tù nhân, mặt mày nhẵn nhụi, mũ mão chỉnh tề, đứng dậy. Anh ta không khiêu khích, thậm chí ngược lại, mở to mắt. Hunt lập tức nhận ra anh ta là truyền trưởng của Wen Rui.

Viên sĩ quan chỉ huy đổ bộ, báo cáo là họ đã lục soát con tàu và phát hiện ra một khoang chống nước, có cửa bọc thép, bị khóa và thủy thủ đoàn từ chối mở. Họ đã mang máy hàn đến và phá cửa trong 15 phút.

Người tù mặt cạo nhẵn nhụi, thuyền trưởng của Wen Rui nói bằng một thứ tiếng Anh rất nặng:

“Bà là chỉ huy ở đây?”

“Ông nói được tiếng Anh à?”

“Có phải bà là chỉ huy cao nhất ở đây không?”

Viên thuyền trưởng nhắc lại, có vẻ như không tự tin lắm vào ý nghĩa của những từ mà chắc là chắc anh học thuộc đã lâu.

“Tôi là thuyền trưởng Sarah Hunt, Hải quân Hoa kỳ”, Hunt đặt tay lên ngực, trả lời “Đúng, đây là hải đội của tôi.”

Anh ta gật đầu, xuôi vai xuống như bỏ được gánh nặng. “Tôi bàn giao quyền chỉ huy lại cho bà”, sau đó quay lưng lại với Hunt. Trông như một cử chỉ vô lễ. nhưng thực tế là anh ta xòe bàn tay đã bị còng, trong đó có 1 chiếc chìa khóa mà anh ta đã giữ từ đầu, giờ giao lại cho Hunt.

Hunt cầm lấy chìa khóa từ bàn tay mềm mại, không chai sạn như dân đánh cá, đi xuống đuôi tàu, tra khóa và mở tung khoang tàu.

“Chúng ta có gì vậy, madam?” Viên sĩ quan tùy tùng đứng ngay sau bà hỏi.

“Christ, tôi không biết.” Hunt trả lời, nhìn chằm chằm vào dãy màn hình plasma và các ổ cứng bé tí đang nhấp nháy.

13:47 MARCH 12, 2034 (GMT+4:30)

EO HORTMUZ

Khi Wedge chuyển sang chế độ lái bằng tay, các nhà thầu của Lockheed từ tàu George Bush ngay lập tức tra vấn, liệu mọi chuyện có ổn ko? Anh không muốn trả lời, ít nhất là ban đầu. Họ vẫn có thể theo dõi và thấy anh đang bám sát kế hoạch bay, quãng 50 hải lý phía Tây căn cứ hải quân Bandar Abbas của Iran. Ít ra là họ có thể thấy kỹ năng bay của anh chẳng kém gì máy tính.

Bỗng chiếc F35 rơi vào vùng nhiễu động, khá mạnh. Wedge có thể cảm thấy sự rung động mạnh trên cần lái, trên chân anh đang đặt trên chân chân lái, lan khắp đôi vai. Nhiễu động có thể làm phi cơ lệch hướng, rơi vào lớp phòng không tiên tiến vòng ngoài của Tehran, mà ngay cả hệ thống tàng hình của F35 có thể cũng chưa đủ.

Thời cơ đây rồi, anh nghĩ.

Hay là cũng gần như thế.  Bản năng và kinh nghiệm nuôi dưỡng từ 4 thế hệ Mitchell, đã giúp anh hành động chính xác, vượt 7km với tốc độ ~ 1400km/h, lệch 28 độ so với hành trình, đưa phi cơ ra rìa nhiễu động. Tất cả xảy ra chỉ trong 4 giây, nhưng đó là thời khắc sung sướng thầm kí mà anh và tổ tiên đang theo dõi anh từ trên cao, chờ đợi đã lâu.

Nhiễu động biến mất và phi cơ trở lại cân bằng. Các nhà thầu Lockheed lại ồn ã gọi, yêu cầu anh chuyển lại sang chế độ lái tự động. “Roger” Wedge cuối cùng cũng trả lời, “sẽ kích hoạt chế độ lái tự động”. Anh vươn tay nhấn một cái nút có vẻ như vô hại. Phi cơ rùng mình, như kiểu tàu hỏa khớp vào đường ray, F35 chuyển sang chế độ lái tự động.

Wedge đột nhiên thèm thuốc lá. Giống như ông cố Pappy xưa. Nhưng anh phải hoãn cái sự sung sướng đó lại đến sau buổi báo cáo hành trình, mặc dù bao thuốc đang cộm lên bên túi ngực trái áo bay. Hạ cánh với buồng lái ám khói Malboro có lẽ là hơi quá đáng với cấp trên của anh và các nhà thầu của Lockheed. Anh nhìn đồng hồ và tính toán rằng mình sẽ về kịp ăn tối trong nhà ăn dành cho phi công ở đầu hàng không mẫu hạm. Anh như thấy đang ngoạm vào cái bánh kẹp 3 tầng ngon “đốn tim” có phủ trứng rán ở trên.

Trong lúc anh đang mơ màng về thuốc lá và bữa tối, chiếc F-35 bị lệch ra khỏi hành trình, thẳng hướng Bắc vào không phận Iran. Thay đổi nhẹ nhàng đến mức mà Wedge không hề nhận ra cho đến khi có một loạt những thông điệp báo động hoảng hốt từ Bush.

 “Hãy bật hệ thống điều khiển máy tính của anh lên”

Wedge chạm tay vào màn hình máy tính. “Hệ thống máy tính vẫn đang hoạt động mà… Gượm đã, đợi tôi khởi động lại.”

Trước khi Wedge bắt đầu khởi động lại máy tính, anh chợt nhận ra máy tính đã bị đơ. “Các thiết bị điện tử không hoạt động. Tôi sẽ điều khiển bằng tay.”

Anh kéo cần lái, đạp ga. Nhưng phi cơ không đáp ứng.

Chiếc F35 từ từ mất độ cao.  Cố gắng một cách hoảng hốt, gần như giận dữ, anh kéo mạnh các cần điều khiển, bóp chặt như muốn giết chiếc phi cơ thân yêu. Các mệnh lệnh từ George Bush đã không còn là mệnh lệnh mà là những lời tuyệt vọng cầu xin Wedge hãy tìm ra vấn đề.

Nhưng anh không thể.

Anh không biết cái gì hoặc ai đang điều khiển chiếc máy bay của mình.

07:23 MARCH 12, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Chow ăn hết cái kẹo, thêm 2 cốc café mà thông tin vẫn không ngừng cập nhật. Đầu tiên là John Paul thông báo phát hiện một hệ thống công nghệ tiên tiến trên tàu cá mà họ đã đổ bộ và bắt giữ. Commodore Sarah Hunt khẳng định trong vòng 1 tiếng họ có thể tải toàn bộ dữ liệu sang hệ thống máy tính trên các tàu trong hải đội của bà để phân tích tiếp. Trong khi Chow đang bàn bạc cân nhắc các phương án với Hendrickson thì họ nhận được thông tin từ sở chỉ huy Hạm đội Bảy. Một hải đội, ít nhất 6 tàu hải quân Trung quốc cùng với hàng không mẫu hạm Trịnh Hòa đã đổi hướng tiến thẳng đến vị trí của John Paul Jones.

Thông tin thứ ba là khó hiểu nhất. Chiếc F-35 mà Chow phải đến Phòng Tình huống buổi sáng lạnh lẽo đầy tuyết này để theo dõi, đã bị mất kiểm soát. Phi công đã thử tất cả các phương án dự phòng, nhưng đến tận giờ vẫn chưa điều khiển được phi cơ.

“Nếu phi công không điều khiển phi cơ. Chúng ta cũng không điều khiển nó từ xa từ tàu sân bay, vậy thì ma quỷ nào đang lái nó cơ chứ.” Chow quát lên với Hendrickson.

Một nhân viên cấp thấp của Nhà trắng tiến vào, cắt ngang họ. “Tiến sĩ Chow. Tùy viên quân sự đại sứ quán Trung quốc muốn nói chuyện với ông.”

Chow hoài nghi liếc sang Hendrickson, như muốn vị chuẩn đô đốc giải thích cho ông toàn bộ những câu chuyện này chỉ là một phần của một trò đùa tinh quái. Nhưng có vẻ không phải thế. “Ok, nối máy cho tôi,” Chow với tay cầm điện thoại.

“Không, thưa ngài, đô đốc Lin Bao đang ở đây.”, nhân viên trẻ nói.

“Cái gì! Ông ta đang ở đây, ở Nhà Trắng? Cô đùa à!”, Hendrickson kinh ngạc.

Nữ nhân viên lắc đầu. “Không, thưa ngài, ông ta đang ở cổng Tây bắc.”

Chow và Hendrickson đẩy cửa Phòng Tình huống, chạy dọc hành lang đến cửa sổ gần nhất và nhìn qua rèm cửa. Đô đốc Lin Bao trong quân phục màu xanh với các ngù vai màu vàng, đang kiên nhẫn đứng chờ cùng ba sĩ quan và một nhân viên dân sự Trung quốc ở cổng Tây bắc, giữa đám khách du lịch. Đây là một đoàn đại biểu nhỏ. Người Trung quốc chưa bao giờ kích động như thế này.

“Chúa ơi,” ông nghĩ thầm.

“Chúng ta không thể cho họ vào,” Hendrickson nói. Các mật vụ giải thích cho họ là quá trình cấp phép cho các quan chức Trung quốc vào Nhà trắng phải mất ít nhất là 4 tiếng, trừ khi được Tổng thổng, Tổng tham mưu trưởng liên quân hoặc Cố vấn an ninh quốc gia đích thân phê duyệt. Mà cả ba đều đang ở nước ngoài. TV lúc đó đang chiếu cảnh cuộc họp G7 ở Munich nơi đa số lãnh đạo an ninh quốc gia đang tham dự. Hiện tại Chow là quan chức cao cấp nhất của Hội đồng an ninh quốc gia.

“Mẹ kiếp, để tôi ra.” Chow nói.

“Ông không thể ra đó được,” Hendrickson nói

“Nhưng ông ta không thể vào đây.”

Hendrickson không cãi được. Chow tiến ra cửa, không kịp cầm áo khoác mặc dù trời khá lạnh. Ông hy vọng là thông điệp gì đó mà Lin Bao mang đến sẽ không quá dài. Khi ông bước ra ngoài, điện thoại cá nhân bắt được sóng, tin nhắn đến tới tấp, toàn của mẹ ông cả. Lần nào cũng thế, khi trông hộ con gái ông, bà cũng đặt ra vô số câu hỏi để nhắc nhở về công lao của bà đang giúp ông.

Mặc dù khá lạnh, Lin Bao cũng không mặc áo khoác. Chỉ có quân phục và một ngực huân chương, ngù vai vàng và mũ sĩ quan hải quân cầm tay. Ông ta nhẩn nha dùng ngón tay nhón kẹo từ một gói M&M và nói với Chow đang đi qua cái cổng sắt: “Tôi đã bị M&M của các ông khuất phục. Đó là một cuộc can thiệp quân sự, ông biết không? Các lính Mỹ trong thế chiến II, nhất là ở Nam Thái bình dương, đòi hỏi một thứ kẹo socola không bị chảy, hay đúng hơn chỉ có thể tan chảy trong mồm họ.”

Lin Bao liếm đầu ngón tay, nơi những viên kẹo phai màu, để lại những vết chấm lốm đốm.

“Chúng tôi có vinh dự gì đây, thưa đô đốc?” Chow hỏi

Lin Bao thò tay loay hoay trong gói kẹo, có vẻ như ông ta đang muốn tìm một viên có màu cụ thể mà không tìm được.  Ông ta vừa nói vừa nhìn vào gói kẹo: “Các ông có một thứ của chúng tôi, một con tàu nhỏ, tên là Wen Rui. Chúng tôi muốn lấy lại.” Rồi lấy ra một viên kẹo màu xanh, ngắm nghía nó như thể ông ta lấy nhầm, rồi vẫn đưa vào mồm.

“Chúng ta không thể nói chuyện ở đây.” Chow nói.

“Vậy ông có thể mời tôi vào trong được không?”, đô đốc hỏi, hất đầu về phía Cánh Tây, biết chắc là không thể làm được. “Bởi thế, tôi nghĩ, cách duy nhất là chúng ta nói chuyện ở đây.”

Chow bắt đầu lạnh, ông kẹp hai bàn tay mình để sưởi ấm.

“Tin tôi đi, tốt nhất là các ông trao trả lại Wen Rui cho chúng tôi.” Lin Bao nhấn mạnh.

Mặc dù Chow đã từng làm cho tổng thống Mỹ phi đảng phái đầu tiên trong thời hiện đại, ông biết rằng bảo đảm tự do hàng hải ở Biển Nam Trung hoa là chính sách nhất quán của các đời tổng thống Mỹ dù là Cộng hòa hay Dân chủ trước đó. Chow nhắc lại quan điểm đó cho Lin Bao đang tỏ ra thiếu kiên nhẫn.

“Ông không có nhiều thời gian đâu,” Lin Bao nói với Chow, vừa tìm cách moi kẹo từ trong gói M&M.

“Đây là một lời đe dọa?”

“Không hề,” Lin Bao lắc đầu buồn bã, thất vọng vì Chow lại nghĩ như vậy. “Ý tôi là mẹ ông đang nhắn tin cho ông kìa. Có phải là ông cần trả lời không? Kiểm tra đi. Hình như bà ấy đang muốn đưa Ashni ra ngoài ngịch tuyết mà không tìm thấy áo khoác của con bé.”

Chow rút điện thoại, liếc nhìn tin nhắn. Đúng là những gì Lin Bao nói.

“Chúng tôi đang cử đội tàu tới ngăn chặn John Paul Jones, Carl Levin và Chung-Hoon,” Lin Bao liệt kê tên từng con tàu để chứng tỏ là ông ta biết điều đó, cũng như ông ta biết nội dung các tin nhắn gửi vào điện thoại của Chow. “Nếu các ông định làm lớn chuyện, đó sẽ là sai lầm!”

“Các ông có gì để đổi lấy Wen Rui không?”

“Chúng tôi sẽ trả lại F-35”

“F-35? Các ông làm gì có F-35.”

“Có lẽ ông cần phải quay lại Phòng Tình huống để kiểm tra”, Lin Bao bình tĩnh nói và đổ viên kẹo cuối cùng ra lòng bàn tay. Đó là viên màu vàng. “Chúng tôi cũng có M&M, nhưng ở đây ngon hơn. Ở Trung quốc có vẻ họ không tìm được công thức đúng.” Ông ta bỏ viên kẹo vào mồm, lim dim mắt để thưởng thức rồi nhìn thẳng vào Chow: “Các ông cần phải trả lại Wen Rui cho chúng tôi.”

“Tôi không cần phải làm gì cả,” Chow khẳng định!

Lin Bao lắc đầu thất vọng, “Vậy hả, tôi hiểu.” Ông ta vò gói giấy kẹo lại và vứt xuống vỉa hè.

“Đô đốc, mời ông nhặt lên cho.” Chow nói

Lin Bao thờ ơ nhìn xuống “Nếu không thì sao?”

Trong lúc Chow đang suy nghĩ trả lời thế nào, thì viên đô đốc đã quay gót bước qua đường giữa dòng xe cộ đông đúc cuối buổi sáng.

16:12 MARCH 12, 2034 (GMT+8)

BIỂN ĐÔNG

Một cặp chiến đấu cơ bỗng đâu xuất hiện. Tiếng nổ siêu thanh của chúng làm rung chuyển bong John Paul làm tất cả bất ngờ. Commodore Hunt chúi đầu xuống theo bản năng. Bà vẫn đang ở trên bong của Wen Rui, khám phá hệ thống điện tử họ mới phát hiện một giờ trước. Thuyền trưởng của Wen Rui cười toe toét, cứ như là anh ta đang đợi phi cơ đến. “Hãy đưa thủy thủ đoàn của Wen Rui xuống hầm tàu.” Hunt ra lệnh cho viên sĩ quan cận vệ. Rồi quay trở về đài chỉ huy, gặp Morris đang tìm cách kiểm soát tình hình.

“Chúng ta thấy gì rồi?” Hunt hỏi

Morris dán mắt vào màn hình Aegis, giờ phát hiện ra không chỉ hai chiến đấu cơ mà còn ít nhất là 6 tàu chiến chưa rõ nguồn gốc đồng loạt xuất hiện. Có vẻ như cả một hạm đội, thỏa thuận cùng lúc bỏ mặt nạ ra cho mọi người nhận dạng. Chúng ở cách khoảng 15km, ở rìa của tầm nhìn bằng mắt thường. Con tàu chạy nhanh và gần nhất trên màn hình Aegis, có vẻ như là một khu trục hạm hoặc khinh hạm.

Hunt nhấc ống nhòm quét đường chân trời. Màu xám của chiếc khinh hạm đầu tiên xuất hiện.

“Đây rồi,” bà nói!

Levin và Hoon cũng thông báo họ đã phát hiện bằng mắt thường, hai rồi 3 và cuối cùng là 5 tàu. Tất cả đều là của Hải quân Quân đội Trung quốc. Từ khinh hạm cho đến tàu sân bay Trịnh Hòa, hoành tráng không kém chiến hạm nào của Hạm đội Bảy. Các tàu Trung quốc bao vây 3 tàu của Hunt đang vây quanh Wen Rui, hình thành hai vòng tròn, chuyển động theo hướng đối nghịch nhau.

Liên lạc viên đeo tai nghe ở góc của đài chỉ huy, đang vẫy tay nài nỉ Hunt. “Gì thế?” Viên thủy thủ đưa cho bà tai nghe. Bà có thể nghe thấy một giọng rất rõ ràng vang lên trên nền tiếng lao xao: “Gửi chỉ huy quân đội Hoa Kỳ. Đây là Chuẩn đô đốc Ma Qiang, chỉ huy hải đội Trịnh Hòa. Chúng tôi yêu cầu các ông phải thả tàu cá mà các ông đang bắt giữ và rời khỏi hải phận chúng tôi ngay lập tức.” Sau đó là một khoảng lặng. Sau đó thông điệp được phát lại.

Hunt thầm nghĩ, họ sẽ phải nhắc lại thông điệp này bao nhiêu lần. Và sau bao nhiêu lần không được trả lời, thì họ sẽ hành động.

“Liệu tôi có thể nói chuyện an toàn với Sở chỉ huy Hạm đội Bảy?” Hunt hỏi viên sĩ quan liên lạc. Anh này gật đầu và bắt đầu nối các dây xanh đỏ vào đằng sau chiếc laptop cổ điển thường được dùng để theo dõi thời gian trong các video games. Trông có vẻ thô sơ, nhưng đó chính là cách kết nối an toàn nhất.

“Họ muốn gì vậy?” Morris hỏi, trống rỗng nhìn sáu con tàu đang bao vây mình.

“Họ muốn đòi lại tàu đánh cá và tất cả các công nghệ trên đó, và muốn chúng ta rời khỏi vùng lãnh hải này.”

“Chúng ta sẽ phải làm gì?”

“Tôi cũng chưa biết nữa” Hunt trả lời, liếc nhìn sỹ quan liên lạc đang loay hoay kết nối và đợi dial tone. Trong khi chờ đợi, bà bắt đầu cảm thấy đau ở chân do leo trèo xung quanh tàu. Bà thò tay vào túi quần, chạm vào nỗi đau và sờ thấy bản quyết định của Hội đồng Y khoa. “Đã liên lạc được với hạm đội chưa?”

“Chưa được, thưa bà.”

Hunt mất kiên nhẫn nhìn đồng hồ. “Vậy thử gọi Levin hoặc Hoon, xem họ có kết nối được không?”

Viên sĩ quan liên lạc tròn mắt kinh ngạc nhìn bà, như muốn tìm sự dũng cảm để nói lên một sự thật khủng khiếp nào đó với chỉ huy của mình.

“Gì thế?”

“Tôi không tìm được gì?”

“Thế nào là không tìm được gì?”, Hunt nhìn Morris, cũng đang lo lắng không kém.

“Tất cả các kênh liên lạc đều bị cắt đứt. Tôi không thể kết nối được với Levin và Hoon. Không nối được với ai cả.”

Hunt tháo máy bộ đàm bà vẫn đeo bên hông, vừa mới dùng để liên lạc với đài chỉ huy khi bà xuống bong Wen Rui. Bà ấn đi ấn lại bàn phím. “Không tìm thấy một kênh nào sao?” Lần đầu tiên giọng nói đã phản bội bà, thể hiện dù chỉ là một chút dấu hiệu của tuyệt vọng.

“Chỉ có kênh này” viên sĩ quan đưa tai nghe mà anh ta đang nghe, vẫn là giọng nói rành rọt đó:

“Gửi chỉ huy quân đội Hoa Kỳ. Đây là Chuẩn đô đốc Mã Giang, chỉ huy hải đội Trịnh Hòa. Chúng tôi yêu cầu các ông phải thả tàu cá mà các ông đang bắt giữ và rời khỏi hải phận chúng tôi ngay lập tức.”

14:22 MARCH 12, 2034 (GMT+4:30)

EO HORMUZ

Tất cả các màn hình đều đen ngòm. Hệ thống điều khiển. Hệ thống hỏa lực. Hệ thống dẫn đường. Các kênh liên lạc đã bị gián đoạn mấy phút trước, làm Wedge cảm thấy bình tĩnh lạ lùng. Không ai gọi anh từ Bush cả. Chỉ một mình anh ở đây, với một vấn đề không thể tưởng tượng nổi.

Phi cơ vẫn tự bay. Hay chính xác hơn có một lực vô hình nào đó đang điều khiển nó một cách nhẹ nhàng và chính xác. Có vẻ như nó không hạ độ cao nữa. Anh ước tính là mình đang bay vòng tròn ở độ cao khoảng 2000m, với tốc độ tầm 900-1000km/h.

Anh lôi tablet có chứa bản đồ chi tiết của khu vực ra. Kiểm tra la bàn trên chiếc đồng hồ Breitling của bố để lại. Đối chiếu la bàn với bản đồ, anh tính ra chính xác vị trí của mình, đúng là phía trên Bandar Abbas, căn cứ quân sự lớn của Iran án ngữ cửa ngõ vùng Vịnh Pec-xich. Anh quan sát vùng đất hoang mạc phía dưới đang chậm rãi xoay tròn theo phi cơ.

Tất nhiên là có khả năng là chiếc F-35 bị trục trặc kỹ thuật. Nhưng xác suất đó là vô cùng nhỏ và nhỏ dần sau mỗi phút. Wedge tin rằng máy bay của mình đã bị chiếm quyền điều khiển và anh đã trở thành hành khách bất đắc dĩ và chút nữa sẽ bị ép hạ cánh xuống lãnh thổ Iran.

Tất cả đều không hoạt động. Hệ thống điều khiển. Vũ khí. Dẫn đường. Máy bay tự bay. Hay chính xác hơn là bị điều khiển bởi một thế lực vô hình. Thời gian không còn nhiều, anh chỉ còn nhiên liệu cho một giờ nữa. Nhưng anh vẫn còn một lựa chọn.

Khả năng là còn lâu anh mới có thể rít một hơi Malboro chào mừng ở đuôi tàu Bush. Anh thò tay xuống dưới giữa hai chân. Ở đó có một cần sơn sọc đen vàng, sẽ kích hoạt tên lửa phóng dù. Cái gì đến phải đến, anh gần như nói to, nghĩ đến bố, ông, rồi cụ mình và giật cần.

Nhưng không có gì xảy ra cả.

Hệ thống ghế phóng nhảy dù cũng đã bị tê liệt.

Động cơ của chiếc F-35 dịu xuống. Phi cơ bắt đầu mất độ cao, hạ cánh xuống Bandar Abbas theo hình xoắn ốc. Wedge cố gắng đạp chân ga, kéo tay lái, ôm cần lần cuối. Rồi rút khẩu súng ngắn trong túi áo bay. Trở đầu nòng, cầm nó như một cái rìu và bắt đầu đập phá các thiết bị trong buồng lái. Đầu tiên là cái hộp đen ở dưới đầu ghế vẫn không ngừng o o trong suốt thời gian khủng hoảng.

08:32 MARCH 12, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Chiếc Không lực 1, bay qua Đại Tây Dương, chở tổng thống từ cuộc họp G7 bị gián đoạn bởi khủng hoảng, dự kiến hạ cánh tại căn cứ không quân Andrew lúc 16h37. Khoảng 1h sau khi Chow thề với mẹ là sẽ về nhà đón con gái đưa sang vợ cũ. Vừa bước ra khỏi một cuộc khủng hoảng, ông lại rơi vào một tình huống bế tắc khác:

“Sandeep, tao không ngồi cùng phòng với con đàn bà đó đâu,” Mẹ ông giận dữ, mặc cho ông van nài giúp đỡ. Khi mẹ ông hỏi lý do cái gì khiến ông không về được, ông không thể nói là Lin Bao đã đọc hết tin nhắn của mình. “Mẹ ơi, con xin mẹ, đây là vấn đề an ninh quốc gia đấy.”

Ông cúp máy và quay vào Phòng Tình huống. Hendrickson và hai tay trợ lý đang ngồi một bên bàn, dán mắt vào bức tường đối diện. Lin Bao vừa gọi điện, thông báo thông tin còn đang trên đường từ tàu George Bush đến Trụ sở Hạm đội Năm ở Bahrain trước khi đến Trung tâm chỉ huy và Nhà Trắng: Lực lượng Vệ binh Cộng hòa Iran đã chiếm quyền kiểm soát và đã buộc hạ cánh chiếc F-35.

 “Máy bay hiện đang ở đâu?”

“Ở Bandar Abbas”

“Phi công thế nào?”

“Đang ngồi trong buồng lái, vung vẩy súng lục”

“Anh ta ổn chứ?”

“Anh ta đang vung súng,” Hendrickson nói rồi ngẫm nghĩ thêm về câu hỏi của Chow. Phi công an toàn, ít nhất là Iran và Trung quốc đang chưa sẵn sàng để giết anh ta. Lin Bao muốn một điều đơn giản: trao đổi. John Paul Jones vớ được một con tàu có giá trị, hay chính xác hơn là công nghệ trên đó – Wen Rui và Trung Quốc muốn thu hồi. Họ muốn dàn xếp một vụ trao đổi thông qua đồng minh của mình là Iran.

Trước khi Chow có thể ra quyết định gì đó, Lin Bao gọi lại. “Các ông đã nghiên cứu đề nghị của chúng tôi chưa?” Chow đang nghĩ đến một vấn đề lớn hơn. Từ giữa những năm 2020, khi Iran gia nhập “Một vành đai, một con đường” để ngăn chặn một thảm họa tài chính sau đại dịch Covid, họ đã giúp Trung Quốc khá nhiều về kinh tế và quân sự. Nhưng quan hệ đồng minh Trung-Iran thực chất là đến mức nào. Có bên thứ ba nào nữa không?

Chow không có thẩm quyền quyết định vụ trao đổi. Tổng thống sẽ quyết định bà ấy sẽ làm gì. Chow giải thích cho Lin Bao, thêm vào là tổng thống sắp về đến nơi. Lin Bao có vẻ không quan tâm: “Trong khi các ông đang giam giữ Wen Rui, chúng tôi buộc phải xem xét mỗi sự trì hoãn là một hành động gây hấn, vì các ông muốn tận dụng thời gian để khám phá công nghệ mà các ông đã chiếm giữ một cách phi pháp. Nếu sau một tiếng nữa, các ông không trao trả Wen Rui, chúng tôi và các đồng minh sẽ hành động.”

Sau đó đường dây im bặt.

Đồng minh là ai? Họ định hành động gì? Lin Bao không nói. Không gì có thể làm được trong một giờ. Tổng thống đã nói rõ, bà không ưa tối hậu thư. Bà đã triệu tập Đại sứ Trung quốc vào buổi tối, nên sẽ không có quyết định gì trước đó, mà theo Lin Bao thì đã quá muộn. Trong lúc đánh giá tình hình, Hendrickson giải thích buồn bã cho Chow rằng lực lượng hải quân gần nhất mà Hoa Kỳ có được trong vòng một giờ để tiếp cận các tàu Trung Quốc là tàu ngầm nguyên tử Michelle Obama, đang theo dõi đoàn tàu thương mại Trung Quốc đi vòng quanh đồng bằng Bắc cực, trước đó bị đóng băng. Obama cũng theo dõi 2 tàu ngầm Nga cách đội thương thuyền độ 10 hải lý.

Trong lúc ngẫm nghĩ, Chow lại nhớ đến câu chuyện về Lincoln.

“Đấy là trong giai đoạn đen tối nhất của cuộc nội chiến”, Chow kể cho Hendrickson, nhưng thực chất là nói với mình. “Bên Liên Bang đang thua liểng xiểng. Một vị khách rời Nhà Trắng về Kentucky có hỏi Lincoln là có tin gì tốt lành để ông ta mang về nhà. Lincoln kể cho vị khách cây chuyện một cao thủ cờ cỡ “độc cô cầu bại” thử đánh với máy chơi cờ và thua ba ván liên tiếp. Ông ta điên lắm, đứng phắt dậy đi vòng quanh cái máy nghiên cứu từng tí một. Và cuối cùng dừng lại chỉ tay vào cái máy rên lên: “Phải có một người ở trong đó.”  Lincoln dặn vị khách: “Thế đấy, dù tình hình có tệ thế nào, luôn phải có một người trong cái máy.”

Điện thoại đổ chuông. Lại là Lin Bao.

15:17 MARCH 12, 2034 (GMT+4:30)

EO HORMUZ

Wedge nổi cáu. Anh không thể dẹp được ý nghĩ mình bị phản bội khi phi cơ chạy trên đường lăn của Bandar Abbas. Anh không thể chọn được nơi hạ cánh, thậm chí không thể cởi mũ bay và tắt động cơ. Phi cơ đã phản bội anh hoàn toàn, làm anh cảm thấy xấu hổ. Anh đã kịp phá hủy cái hộp đen sau đầu bằng báng súng lục. Anh cũng đã đập nát hệ thống liên lạc và kiểm soát vũ khí. Anh lồng lộn trong buồng lái như một con thú bị bắt giữ.

Và anh vẫn tiếp tục làm thế sau khi hạ cánh.

Khi nắp buồng lái mở ra. Wedge đứng dậy và nã đạn liên tiếp vào bảng điều khiển. Anh cảm thấy hưng phấn, như một kỵ sĩ, nhả đạn vào đầu chiến mã đã từng trung thành với mình. Vài chục vệ binh cộng hòa đứng bao vây xung quanh, cố gắng hiểu sự náo loạn này. Ban đầu họ thận trọng giữ khoảng cách, không phải là sợ Wedge mà sợ hành động sai có thể làm hỏng chiến dịch cho đến bây giờ đang diễn ra mỹ mãn. Nhưng Wedge càng hung hăng đập phá, dẫm đạp các thiết bị, vung vẩy súng lục dọa nạt, càng khiến họ phải hành động. Nếu Wedge mà phá sạch các thiết bị, chiếc F-35 sẽ mất giá trị để đàm phán trao đổi.

Vị chỉ huy cao nhất tại trận, một viên chuẩn tướng, hiểu hành độnh của Wedge. Ông này cả đời đối mặt trực tiếp hoặc gián tiếp với người Mỹ. Ông cho khép chặt vòng vây dần dần. Wedge tiếp tục vung súng dọa nạt, nhưng anh biết rằng, mỗi lần anh vung lên, là một lần họ biết là anh sẽ không dùng nó, kể cả nếu nó còn đạn chứ không trống rỗng như bây giờ.

Viên chuẩn tướng, có bàn tay phải mất ngón út và ngón đeo nhẫn, đứng trên chiếc Jeep vẫy tay hét lên với Wedge. Tiếng Anh của ông ấy tệ như bàn tay ba ngón vậy, nhưng Wedge hiểu thông điệp: “Đầu hàng đi, ông sẽ được đối xử tốt.”

Wedge không định đầu hàng mà không chiến đấu. Mặc dù anh cũng chưa biết sẽ chiến đấu với khẩu súng hết đạn như thế nào.

Viên tướng đã đến gần đến mức có thể nói trực tiếp mà không cần phải hét lên bắt Wedge đầu hàng. Anh đứng vụt dậy và lia khẩu súng về phía viên tướng. Khẩu súng xoay vòng bay như một chiếc bumerang. Viên tướng điềm tĩnh không hề chớp mắt, mặc khẩu súng liệng qua đầu, ra lệnh tấn công. Lính của ông ta xuống xe, tràn lên thùng xăng, cánh và buồng lái. Họ thấy Wedge đang ngồi trong tư thế chiến đấu, tay cầm cần lái, chân đặt trên bàn đạp, mắt nhìn đường chân trời, miệng vẫn đang ngậm điếu Malboro. Khi các vệ binh cộng hòa dí súng vào đầu, anh nhổ điếu thuốc ra khỏi buồng lái.

16:36 MARCH 12, 2034 (GMT+8)

BIỂN ĐÔNG

Hệ thống liên lạc của hải đội đã bị cắt đứt trong 20 phút, tưởng như cả thế kỷ.

Hunt phải cho ba con tàu của mình liên lạc với nhau bằng cờ hiệu. Hóa ra đây là cách thức hiệu quả nhất để các thủy thủ phối hợp hành động với nhau ngay trước mũi hạm đội Trịnh Hòa đang bao vây. Thông tin duy nhất mà họ nhận được qua sóng vô tuyến vẫn là lời kêu gọi trả lại Wen Rui. Nó được nhắc đi nhắc lại trong khi Hunt và các cộng sự tìm mọi cách nhận thông tin từ Hạm đội Bảy để làm rõ tình huống đang ngày càng xấu đi này.

Sẽ không có thông tin nào cả. Hunt biết điều đó.

Bà cũng biết là điều đang xảy ra nằm trong một diễn biến rộng hơn mà bản thân bà không hiểu. Bà bị đặt vào một trò chơi mà đối thủ nhìn được toàn bàn cờ, còn bà chỉ nhìn thấy quân trước mặt. Thủy thủ đoàn của cả ba con tàu đều đang tập trung trong phòng chính. Viên sĩ quan tùy tùng đang cố gắng tải thông tin từ Wen Rui, hy vọng sẽ hoàn thành trong một giờ tới. Hunt giả thiết đối thủ của mình cũng biết điều đó, và điều gì phải xảy ra sẽ xảy ra trước khi hết một giờ đó.

Lại thêm 20 phút nữa. Morris, vừa từ Wen Rui về, bước lên cầu chỉ huy. “Họ tải sắp xong rồi. Có lẽ là 5 phút nữa. Khi đó chúng ta có thể quên Wen Rui đi và chuồn khỏi đây.”

Hunt gật đầu, nhưng biết thừa là sự việc sẽ không diễn ra như vậy.

Bà không biết điều gì sẽ xảy ra, nhưng gì đi nữa, bà chỉ có đôi mắt để quan sát cái gì sẽ xảy ra chống lại mình. Biển vẫn lặng im như một tấm kính, như cả buổi sáng nay.

Hunt và Morris đứng cạnh nhau quan sát đường chân trời. Vì biển rất yên tĩnh, nên họ nhận ra hành động của kẻ thù rất nhanh, chỉ sau vài giây. Cái gì đó đang âm thầm lao tới như chớp dưới mặt biển: một quả thủy lôi

600 mét

500 mét

350 mét

Nó trỗi dậy rẽ sóng

Morris hét lên ra lệnh cho thủy thủ đoàn chuẩn bị va chạm. Còi báo động vang lên toàn tàu. Hunt, ngược lại, đứng im vào thời khắc quyết định này. Bà cảm thấy thư giãn một cách ngạc nhiên. Đối thủ đã đi trước. Giờ đến lượt bà. Nhưng quả thủy lôi này sẽ đâm vào John Paul hay Wen Rui? Ai là người tấn công? Sẽ chẳng bao giờ thống nhất được. Chiến tranh xảy ra vì những sự bất đồng đó. Ít người có thể tiên đoán được điều gì sẽ xảy ra sau phát súng đầu tiên. Nhưng Hunt biết điều đó. Bà như nhìn thấy nhiều năm tới rõ ràng như quả thủy lôi giờ chỉ cách bà có gần 100 mét.

Ai có lỗi trong ngày hôm nay sẽ còn lâu mới được làm rõ. Chiến tranh sẽ xảy ra trước. Sau đó bên chiến thắng sẽ quyết định ai có lỗi. Đã là như thế và luôn là như thế. Đó là suy nghĩ của Hunt khi quả thủy lôi đâm vào.

17:13 MARCH 12, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Chow ngả về phía trước, chống tay lên bàn hội nghị, vươn cổ về micro để ở giữa. Hendrickson ngồi đối diện, tốc ký lại cuộc gọi, trên máy tính. Họ nhận được lệnh từ Tổng tư lệnh và Trung tâm chỉ huy quốc gia trực tiếp từ Không lực 1. Trước khi đại sứ Trung quốc đến Nhà Trắng chiều nay, Cố vấn an ninh quốc gia đã vạch ra đường lối đàm phán tấn công mà bây giờ Chow đã truyền đạt cho Lin Bao

Nhưng đường dây vẫn im lặng

Chow liếc mắt nhìn Hendrickson. Ông này thò tay tắt mic và thì thào: “Ông nghĩ là họ đã biết chưa?” Chow lắc đầu không tin tưởng lắm. Sự kiện mà Hendrickson nhắc đến là: đã 40 phút qua, trụ sở Hạm đội Bảy ở Yokosuka mất mọi liên lạc với John Paul và các tàu trong hải đội.

“Xin chào?”, Chow nói vào loa.

“Vâng, tôi đây” giọng Lin Bao vang lên quan đường dây. Có vẻ như ông ta mất kiên nhẫn vì bị bắt buộc phải tiếp tục cuộc đối thoại mà ông ta đã mệt mỏi trước đó. “Cho phép tôi nhắc lại quan điểm của các ông để chắc chắn là tôi hiểu đúng: hàng chục năm nay, hải quân các ông tự do đi lại trong vùng biển của chúng tôi, bay lượn trong không phận của các đồng minh của chúng tôi, và hôm nay bắt giữ một con tàu của chúng tôi. Và ông vẫn cho rằng, các ông là bên bị hại và chúng tôi phải nhân nhượng.”

Căn phòng trở nên im lặng đến mức Chow nghe thấy tiếng dòng khí chuyển động trong những bóng đèn halogen trên đầu. Hendrickson đã kịp ghi lại những bình luận của Lin Bao và đang chuẩn bị gõ tiếp.

“Đây là quan điểm của chính quyền hiện tại, nhưng nếu các ông có đề xuất đối trọng, chúng tôi tất nhiên sẽ vui lòng xem xét.” Chow thận trọng, nuốt nước bọt trước khi khi nói hết.

Sau đó là giọng bực tức của Lin Bao: “Chúng tôi có đề xuất đối trọng.”

“Tốt quá,” Chow xen vào, nhưng Lin Bao đã phớt lờ nói tiếp:

“Kiểm tra đi, ông sẽ thấy đề xuất trong máy tính của ông rồi đó.”

Bỗng dưng điện mất. Tất cả tối sầm trong giây lát. Rồi lại có ngay. Nhưng Lin Bao đã không còn đó nữa. Chỉ có tiếng dial tone của điện thoại. Chow tìm cách bắt liên lạc với tổng đài Nhà Trắng còn Hendrickson login lại vào máy tính.

“Cái quái gì vậy?” Chow hỏi.

“Password của tôi bị vô hiệu hóa”

Chow đẩy Hendrickson sang một bên. Mật khẩu của ông ta cũng không làm việc nốt.

2034, PHẦN II: WASHINGTON MẤT ĐIỆN

18:42 MARCH 12, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.,

Về Bắc Kinh

Bất cứ ai đã từng sống qua chiến tranh đều có thể kể họ đang ở đâu tại thời điểm mất điện. Thuyền trưởng Hunt đang ở trên cầu chỉ huy John Paul Jones, tìm mọi cách giữ cho chiến hạm của mình nổi, bỏ mặc tiếng kêu khóc hoảng loạn từ các tầng dưới. Thiếu tá Wedge bị bịt mắt còng tay áp giải đi trong các đường hầm của căn cứ không quân Bandar Abbas. Đô đốc Lin Bao vừa rồi Sân bay quốc tế Dulles trên chiếc Gulfstream 900, của Bộ chỉ huy Quân sự Trung tâm.

Lin Bao đã từng bay trên chiếc máy bay này, khi thì trong đoàn đi dự Hội nghị quốc tế, khi thì tháp tùng Bộ trưởng hoặc các quan chức cấp cao. Đây là lần đầu tiên ông được bay một mình, chứng tỏ tầm quan trọng của công việc mà ông vừa hoàn thành. Lin Bao gọi cho Chow ngay sau khi cất cánh, khi các tiếp viên còn bị “trói” vào ghế ngồi và chiếc Gulfstream đang lấy độ cao ở mốc 300m. Treo máy với Chow, ông ngay lập tức gửi một tín hiệu mã hóa cho Trung tâm, xác nhận cuộc gọi đã hoàn thành. Tác động tức thời, chẳng khác gì ông bấm 1 cái nút cả. Cả Washington lung linh bên dưới bỗng tối om, rồi sáng lại ngay lập tức. Như một cái chớp mắt.

Lin Bao ngẫm nghĩ về cái chớp mắt của đời mình, ngắm bờ biển phía Đông biến mất khi phi cơ tiến vào không phận quốc tế trên Đại Tây Dương đen ngòm. Cứ như cả sự nghiệp của ông được xây dựng nhằm vào khoảnh khắc này. Tất cả trước đây, từ thời gian trong học viện, các nhiệm vụ thay đổi liên tục trong hải quân, đến việc học tiếp và trở thành một cán bộ ngoại giao, trải ra như từng cung đường leo núi. Và giờ ông đang ở đỉnh núi.

Ông nhìn ra cửa sổ, như muốn tìm kiếm điều gì ưa thích từ trên độ cao này. Tất nhiên là chỉ có đêm đen. Không trăng sao. Đại dương bên dưới cũng đen kịt. Từ khoảng trống rỗng này, ông cố tưởng tượng điều gì đang diễn ra ở bên kia bán cầu. Ông có thể nhìn thấy chuẩn đô đốc Ma Qiang trên đài chỉ huy của tàu sân bay Trịnh Hòa. Con đường sự nghiệp của ông được chính phủ sắp xếp trở thành tùy viên quân sự tại Mỹ chính xác như con đường Ma Qiang trở thành chỉ huy nhóm tàu chiến đấu thực thi chủ quyền trên đại dương. Nếu như họ không gặp nhau trong những ngày đầu sự nghiệp ở trường hải quân thì chắc họ cũng cảm nhận được đường quan lộ song song của mình. Ma khi đó là học lớp trên, xuất thân con nhà dòng dõi, cả bố và ông đều là đô đốc hải quân. Ma nổi danh vì hiểu biết và tàn bạo, đặc biệt khi đì bọn năm dưới. Lin Bao xuất thân dân học hành. Mặc dù sau này tốt nghiệp với số điểm cao chưa từng thấy, Lin vẫn trông như một cậu bé yếu đuối thò lò mũi xanh, mang nửa dòng máu Mỹ, nửa dòng máu Hoa, trở thành miếng mồi ngon cho sự chế nhạo và nghi ngờ của các bạn cùng lớp, trong đó có Ma.

Nhưng tất cả những cái đó đã lâu rồi. Cuối cùng thì cũng chính nhờ sự hỗn huyết mà chính phủ đã thấy được giá trị của Lin và đưa ông đến chức vụ hiện nay. Còn năng lực và sự tàn bạo đang được Ma sử dụng để chỉ huy hạm đội của mình, giáng những đòn sấm sét vào hải quân Mỹ. Mỗi người đều có vai của mình, làm việc của mình.

Một phần của Lin Bao mơ được đứng trên cầu chỉ huy của Trịnh Hòa với hạm đội dàn đội hình tác chiến đằng sau. Suy cho cùng, ông là sĩ quan hải quân, đã từng chỉ huy trên biển. Nhưng bù lại ông lại có thông tin từ vị trí của mình. Ngoài ông ra, chắc chỉ có 5-6 người nữa biết chính xác qui mô của những sự kiện đang diễn ra.

Ma và hàng ngàn thủy thủ dưới quyền ông ta không biết gì về chiếc F-35 đã bị buộc hạ cánh bởi các công nghệ điện tử mà chính phủ ông mượn tay Iran để thực hiện. Ông ta cũng không biết gì về các việc đó liên quan gì đến nhiệm vụ của mình. Những điểm mạnh nhất của người Mỹ mà Lin kính trọng: đạo đức vững, quyết tâm đến cùng, luôn lạc quan, lại chính là những thứ đang làm họ lúng túng: họ đang cố gắng tìm lời giải cho vấn đề mà họ không hiểu.

Điểm mạnh nhất của ta cũng sẽ là điểm yếu nhất của ta. Luôn luôn là như thế. Lin Bao nghĩ.

Người Mỹ đang hiểu như thế này. Họ bắt được con tàu Wen Rui, đầy những công nghệ nhạy cảm mà chính phủ của Lin Bao bằng mọi cách phải lấy lại. Vì thế họ cần phải có cái gì đó để mặc cả và vì thế xuất hiện chiếc F-35. Lin Bao có thể đoán được những bước tiếp theo của người Mỹ, đã nhiều lần thể hiện trong các cuộc đối đầu giữa hai dân tộc này. Hai bên đều sẽ lên gân, thậm chí đẩy đến bờ vực, rồi giảm nhiệt và cuối cùng là mặc cả. F-35 đổi lấy Wen Rui. Linh Bao biết và sếp của ông cũng biết, người Mỹ không thể tưởng tượng được là công nghệ trên chiếc F-35 chỉ là thứ yếu và những “đồ chơi” trên Wen Rui chẳng có giá trị gì. Người Mỹ sẽ không hiểu, hay ít nhất là cho đến khi quá muộn, rằng chính quyền của Lin Bao chỉ cần có khủng hoảng, để họ bắt đầu tấn công ở Biển Nam Trung hoa. Người Mỹ không có, hoặc nếu có đã mất từ lúc nào đó, trí tưởng tượng. Vụ 11/9 cũng thế và giờ là vụ Wen Rui. Đây không phải là thất bại của cơ quan tình báo Mỹ. Đây là thất bại của trí tưởng tượng Mỹ. Và càng vùng vẫy họ càng rơi vào bẫy của chính mình.

Lin Bao nhớ một trò chơi ông nhìn thấy trong một cửa hiệu ở Cambridge, nơi ông học ở Trường Kennedy của Harvard. Đó là một cái ống làm từ vật liệu như nan tre. Người bán hàng thấy ông tò mò, thì đề nghị bằng giọng Boston rất nặng mà Lin Bao phải cố gắng mới hiểu được: “anh đút ngón tay vào một đầu ống đi.” Lin Bao làm theo. Nhưng khi ông rút ngón tay ra thì cái ống lại bóp lại, ông càng rút thì nó càng bóp mạnh giữ chặt ngón tay. Người bán hàng cười phá lên: “anh chưa nhìn thấy cái này bao giờ sao?” Lin Bao lắc đầu, ông ta càng cười to hơn rồi nói: “Đây là cái bẫy ngón tay Trung Hoa.”

05:17 MARCH 13, 2034 (GMT+4:30)

BANDAR ABBAS

Chuẩn tướng Qassen Farshad ngồi trên cái ghế xếp bằng nhựa trong căn phòng trống cạnh một buồng giam. Đấy là buổi sáng sớm và ông đang không thoải mái. Ít người nhận thấy, vì trông ông lúc nào cũng đáng sợ. Tiếng đồn về ông còn đáng sợ hơn. Bởi thế rất khó đoán tâm trạng của ông. Ngay lúc ngồi nghỉ thì trông ông cũng như đang giận dữ hoặc khó chịu gì đó, phụ thuộc vào ai nhìn thấy ông. Farshad có sẹo, nhiều sẹo. Đáng kể nhất là ở tay phải, ông mất ngón út và ngón đeo nhẫn khi làm mìn tự chế ở Sadr City trong nhiệm vụ đầu tiên của người lính trẻ. Lỗi đó làm ông mất chỗ trong lực lượng Quds tinh nhuệ. Nhưng tướng trùng tên Qassem Soleimany, chỉ huy lực lượng Quds đã can thiệp, cho rằng đó là sự yếu kém của nhóm phiến quân Jaish al-Mahdi do Farshad tư vấn.

Đấy là là lần duy nhất ông sử dụng mối quan hệ đặc biệt với Soleimani trong suốt 30 năm hoạt động trong lực lượng Quds. Bố ông, mang hàm trung tá, đã chết khi liều mình ngăn chặn một vụ ám sát Soleimani vài tuần trước khi Farshad ra đời. Mặc dù vụ việc còn nhiều bí ẩn, nhưng việc Soleimani, người bảo vệ Nước Cộng hòa Hồi giáo, nợ dòng họ Farshad một ân tình, cũng phủ tấm màn huyền bí lên con đường thăng tiến của Farshard trong lực lượng Vệ binh Cộng hòa. Thêm vào nữa ông còn nổi danh là táo bạo và có năng lực.

Lịch sử chiến trận của ông trải dài qua những vết sẹo trên người. Khi tư vấn cho chính phủ Syria trong Trận Allepo, một mảnh đạn pháo đã chém ngang mặt từ lông mày xuống dưới má. Khi tấn công Herat sau sự sụp đổ của chính quyền Afganistan ở Kabul năm 2026, một viên đạn đã xuyên qua cổ ông, may mắn thế nào không chạm vào động mạch và khí quản, chỉ để lại ở đầu vào và đầu ra một lỗ thủng như đồng xu. Vết sẹo này làm cổ ông giống như Frankenstein mà bị tháo mất vít (thực chất là lính ông cũng gọi ông như vậy). Và trong trận đánh đỉnh cao của sự nghiệp khi ông chỉ huy một trung đoàn vệ binh cộng hòa đánh chiếm lại Cao nguyên Golan năm 2030, một quả tên lửa của Israel đã nổ phía sau ông, giết chết người lính liên lạc, và cắt cụt chân phải ông từ dưới gối. Ông vẫn còn đi khập khiễng từ vết thương đó, mặc dù sáng nào cũng đi bộ gần 5km bằng cái chân nhựa rất vừa vặn.

Những ngón tay bị mất, sẹo trên mắt, cẳng chân bị cưa cụt… tất cả đều ở nửa bên phải. Nửa bên trái người ông, ngoại trừ vết sẹo trên cổ, rất lành lặn. Nếu lính gọi ông là Vua Frankenstein vĩ đại thì các nhà phân tích tình báo Mỹ tại Langley lại gọi ông là “Dr Jekyll và Mr Hyde”. Ông là người có 2 mặt, một mặt lành lặn và một mặt đầy sẹo. Ông có thể rất dễ thương, nhưng cũng có thể rất hung bạo. Và mặt hung bạo dễ dàng đưa ông đến những hành vi mất kiểm soát, giờ đây đang chế ngự ông, trong văn phòng trống cạnh những buồng giam của Bandar Abbas.

Năm tuần trước, Ban Tổng tham mưu Các lực lượng vũ trang đã ra một chỉ thị trực tiếp cho Farshad. Chính phủ dự kiến sẽ buộc hạ cánh một chiếc F-35 của Mỹ mà Farshad sẽ phải hỏi cung phi công. Ông sẽ có hai ngày để buộc phi công nhận tội và chính phủ sẽ sử dụng video này để bêu xấu người Mỹ. Sau đó viên phi công sẽ được thả, các công nghệ tối tân sẽ bị thu giữ còn máy bay sẽ bị phá hủy. Khi Farshad phản đối là việc thẩm vấn phi công là quá tầm thường với cương vị, ông được trả lời là ông là người có cấp bậc thấp nhất trong những người liên quan đến vụ việc nhạy cảm này. Nó có thể dẫn 2 quốc gia đến bờ vực của chiến tranh. Tình huống khó xử và lại gấp rút, nên Farshad được lệnh ở lại căn cứ không quân thêm hơn 1 tháng, đợi cho máy bay Mỹ bay qua.

Mình bị hạ cấp quá, Farshad chua chát nghỉ. “Người được tin tưởng có cấp bậc thấp nhất.”

Farshad nhớ lại những ngày chinh chiến, nơi ông đã kiếm đủ các vết sẹo có thể. Ông nhớ những ngày cuối cùng của tướng Soleimani. Khi người Mỹ giết ông, căn bệnh ung thư vòm họng đang gặm dần viên tướng vĩ đại. Đã mấy lần người bạn già của bố ông đã phải nằm liệt giường vì căn bệnh quái ác. Trong một lần như vậy, viên tướng đã gọi Farshad đến bên mình ở căn nhà nhỏ đồng quê tại Qanat-e Malek, cách Teheran 3 giờ lái xe, nơi Soleimani đã sinh ra và lớn lên. Cuộc gặp gỡ cũng không lâu. Và Farshad nhìn thấy thần chết trong nụ cười Soleimani chào đón ông, trong hàm răng trệu trạo toàn lợi, trong đôi môi tím tái. Soleimani nói với ông bằng giọng khàn khàn, rằng bố ông là người may mắn, không bao giờ già vì đã chết như một liệt sĩ, điều mà chiến binh nào cũng mong muốn và ông cầu mong cho con của người bạn già cũng có một cái chết như vậy. Chưa kịp nghe Farshad trả lời, Soleimani đã ra hiệu để ông đi. Ra khỏi cửa ông còn nghe thấy tiếng nôn mửa thảm hại đằng sau. Hai tháng sau, kẻ thù lớn nhất của Soleimani, người Mỹ đã tặng ông ta món quà quí giá nhất: chết như một người lính trên chiến trường.

Ngồi đợi trong văn phòng trống ở Bandar Abbas, Farshad nhớ lại thời điểm đó. Ông gần như tin chắc số phận mình sẽ không được chết trên chiến trường như bố, mà sẽ chết trên giường bệnh, như viên tướng già suýt nữa đã bị như vậy. Và đó cũng là một lý do làm ông không vui lắm hôm nay. Một cuộc chiến tranh mới đang âm ỉ chuẩn bị xảy ra, ông cảm thấy điều đó, và có thể đó là cuộc chiến đầu tiên mà ông sẽ thoát thân mà không dính vết sẹo nào.

Một người lính trong bộ trang phục sạch sẽ và nghiêm chỉnh xuất hiện ở cửa: “Thưa chuẩn tướng…”

Gì vậy?

Tù binh đã đợi ngài.

Farshad từ từ đứng dậy, đi ngang qua anh lính tiến về phía buồng giam của viên phi công Mỹ. Dù có muốn hay không, ông vẫn phải làm việc đó.

21:02 MARCH 12, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Sandy Chowdhury biết tình hình đang tồi tệ. Địa chỉ email của chính phủ, số điện thoại di động của chính phủ, kể cả mấy máy bán hàng tự động dùng thẻ tín dụng chạy từ địa chỉ IP của chính phủ, tất cả đều sập. Không mật khẩu nào đúng. Không ai login vào được. Chow chỉ có thể nghĩ được: tình hình xấu, xấu, xấu!

Ông không liên lạc được với Bộ Chỉ huy Trung tâm hoặc Bộ Chỉ huy Ấn độ – Thái bình dương. Suy nghĩ của ông chạy lung tung, tưởng tượng ra vô khối những gì có thể xảy ra với chiếc F-35 cũng như số phận của John Paul Jones và các tàu đồng đội của nó.

Trí nhớ bắt đầu tour lại

Khi còn học ở Bắc Virginia, ông chạy vượt chướng ngại vật. Mọi việc đều ổn thỏa, cho đến khi ông gặp tai nạn trên đường chạy làm gãy xương gót chân trong chặng cuối cùng của cuộc đua tiếp sức 4x400m. Đó là cuộc thi khu vực trong năm đầu tiên ở trường. Khi ngã, ông cảm thấy mồ hôi chảy xót những chỗ da xước ở đầu gối và cẳng tay, nhưng không cảm thấy gì ở cái gót chân đã bị gẫy nát. Ông chỉ ngồi đó, nhìn các vận động viên khác lướt qua, ngơ ngác nhìn cái chân gẫy lủng lẳng dưới khớp mắt cá. Ông biết là nó sẽ rất đau. Nhưng lúc đó chưa có cảm giác đau đớn gì.

Bây giờ là lúc như vậy. Ông biết cái gì đó đã bị gẫy. Nhưng ông chưa cảm thấy gì.

Chow, Hendricksom cùng số nhân viên ít ỏi của mình chạy đi chạy lại, gõ gõ bàn phím, tháo phíc rồi cắm lại phíc những chiếc điện thoại câm như hến, cố gắng khởi động lại hệ thống từ chối phản ứng. Chiếc Không lực 1, dự kiến phải hạ cánh xuống căn cứ Andrew 1 tiếng trước đây, bỗng mất hút. Không thể nào liên lạc được. Điện thoại cá nhân của họ vẫn hoạt động, nhưng họ không dám gọi qua kênh dân sự không được bảo mật, nhất là sau khi Lin Bao cho Chow thấy những tin nhắn trong điện thoại của ông.

Mấy giờ sau khi mất điện, thời gian trôi qua một cách kỳ lạ. Ai cũng biết là mỗi phút đều quan trọng, ai cũng cảm thấy là những sự kiện đang diễn ra như thế này sẽ thay đổi tiến trình lịch sử. Nhưng không ai hiểu hình thái của nó. Không ai hiểu cái gì sẽ tiếp theo. Không có thông tin gì về Wen Rui, F-35 và Không lực 1, có vẻ như đã biến mất. Họ cũng không thể gọi được điện thoại theo kênh an toàn để tìm hiểu qui mô của cuộc tấn công. Tất cả đã bị xâm phạm.

Họ cố gắng tỏ ra bận rộn một cách vô ích. Chow và Hendrickson cố thủ trong Phòng Tình huống, cặm cụi chúi đầu vào bàn hội nghị, nguệch ngoạc vạch ra các kế hoạch rồi lại vứt bỏ đi. Cho đến khi sếp của Chow, Tren Wisecaver, cố vấn an ninh quốc gia đứng ở ngưỡng cửa đang mở.

Đầu tiên họ còn không nhận ra sự có mặt của ông ta.

“Sandy”, ông ta nói

Chow nhìn lên ngơ ngác: “Thưa ngài?”

Mấy chục năm trước, Wise chơi ở vị trí hộ công của đội bóng đá Mỹ West Point nên trông ông vẫn phong độ. Tay áo xắn lên quá khuỷu, cà vạt thắt lỏng quaynh cổ, tóc muối tiêu chưa chải kỹ. Ông đeo một cặp kính cận thị nặng không gọng và trông như vừa ngủ dậy trong bộ vest của Brooks Brothers: “Các anh có bao nhiêu tiền mặt?”

“Gì cơ?”

“Tiền mặt. Tôi cần 80 đô trả taxi. Thẻ tín dụng chết tiệt của tôi không làm việc.”

Chow và Hendrickson lục túi mãi gom được 76 đô, trong đó 3 đô là tiền xu, rồi đưa hết cả mớ giấy và xu đó cho Wisecarver khi cả hội đi từ Cánh Tây đến Đường Bắc nơi có sảnh của Nhà Trắng. Một chiếc taxi đang đợi cạnh vòi phun nước. Một mật vụ mặc quân phục đưa cho Chow giấy phép và đăng ký của lái xe taxi rồi quay về vị trí.

Sếp của Chow giải thích là máy bay của ông bị buộc chuyển hướng sang sân bay Dulles và hạ cánh như máy bay dân sự. Không có nghi lễ đón đưa, không có bảo đảm an ninh. Tổng thống được đưa về Andrew ngay sau đó, vì từ trên Không lực 1, bà chỉ có thể nói chuyện được với phó Tổng thống và Tướng 4 sao chỉ huy lực lượng chiến lược. Những kẻ thiết kế cuộc tấn công đã giữ những kênh này để bảo đảm tránh được leo thang hạt nhân. Bắc Kinh (hoặc ai đó làm việc này) biết rằng nếu tổng thống không liên lạc được với lực lượng hạt nhân, hệ thống sẽ tự động kích hoạt một cuộc tấn công phủ đầu.

Tuy nhiên bà không nói chuyện được với Bộ trưởng quốc phòng và các tướng chỉ huy mặt trận khác. Và Wisecarver phải lo việc đó. Nên ông này đã bỏ qua mọi thủ tục đưa đón, bắt taxi thẳng từ Dulles về Nhà Trắng để bảo đảm khôi phục liên lạc trước khi Tổng thống về đến nơi.

Và ở đây ông mới phát hiện ra là mình không có xu nào trong túi để trả tiền taxi.

Chow xem xét đăng ký của taxi. Lái xe là người nhập cư Nam Á, có họ trùng với cùng khu vực ở Ấn với gia đình Chow. Khi Chow tiến đến trả lại giấy tờ cho người lái xe, ông định nhắc chuyện đó, nhưng lại thôi. Không hợp cả về thời gian và không gian. Wise đếm tiền trả cho lái xe trong khi tay mật vụ ngó nghiêng khắp bốn phía để xem có mối đe dọa nào, dù là thật sự hay tưởng tượng không.

10:22 MARCH 13, 2034 (GMT+8)

BEIJING

Lin Bao không ngủ được nhiều trên máy bay. Vừa hạ cánh, ông được một đoàn vest đen, kinh đen, súng ống giấu kín, hộ tống đến trụ sở của Bộ Quốc phòng, một tòa nhà xấu xí ở trung tâm của thủ đô mờ mịt. Lin Bao đoán họ là các sĩ quan của Bộ an ninh Quốc gia nhưng không chắc lắm. Không một lời chào hỏi, họ đưa ông tới phòng họp không cửa sổ ở tầng 6 tòa nhà rồi rút lui sau khi đóng kín cửa.

Lin ngồi đợi. Bàn họp ở giữa phòng khá nặng nề, được thiết kế được tiếp khách quốc tế hoặc những cuộc đàm phán có độ nhạy cảm cao. Ở giữa bàn có một lọ hoa lan Ý, một trong số ít loài hoa sống được không cần ánh sáng mặt trời. Lin đưa ngón tay chạm vào bên dưới những cánh hoa trắng mịn, không thể không nghĩ đến sự trớ trêu của tình huống. (Loại hoa này tên tiếng Anh có nghĩa là Lan Hòa bình – NTN)

Trên bàn có 2 cái đĩa bạc, đựng đầy các gói kẹo M&M. Ông nhận ra bao bì tiếng Anh tức là loại sản xuất ở Mỹ. Hai cánh cửa cuối phòng mở ra và Lin Bao giật mình ngồi thẳng lại.

Các sĩ quan cấp dưới tràn vào, hạ màn hình, kết nối đường truyền an toàn, bày các chai nước lên bàn. Rồi họ lại nhẹ nhàng rút ra, nhanh như thủy triều xuống. Một người đàn ông nhỏ bé, ngực đeo đầy huy chương, bước vào. Ông ta mặc bộ quân phục màu tro, từ vải tốt, nhưng cắt khá vụng, tay áo trùm cả lên bàn tay. Thái độ của ông ta thân thiện. Hai dái tai lắc lư định vị một khuôn mặt tròn, và đôi má đầy đặn xếp lại thành một nụ cười cố định. Ông ta đưa tay ra như một cái phích cắm tìm ổ điện: “Đô đốc Lin Bao, Đô đốc Lin Bao. Xin chúc mừng. Anh đã làm rất tốt,” ông nhắc lại tên đô đốc như một khúc khải hoàn.

Lin chưa bao giờ gặp bộ trưởng, tướng Chiang. Nhưng mặt thì quen. Vì đã nhiều lần nhìn thấy ảnh ông ta cùng các tướng tá trên các bức tường doanh trại trong đời quân ngũ của mình. Có lẽ vì nụ cười đã làm Chiang khác biệt so với các quan chức khác lúc nào cũng tỏ ra trầm trọng khi chụp ảnh. Thói quen đó, có thể làm cho người ta cho là biểu hiện của sự yếu đuối, là cái vỏ mềm mại bao bọc quyền lực của văn phòng ông. Bộ trưởng Chiang chỉ tay về mấy chiếc đĩa bạc, cố gắng giấu nụ cười sảng khoái “anh chưa ăn những chiếc kẹo M&M yêu thích của mình à?”

Lin Bao có cảm giác không lành. Nếu ông cho rằng Bộ trưởng và Bộ chỉ huy gọi ông về để báo cáo, ông sẽ nhanh chóng thất vọng. Họ đã biết hết, kể cả những chi tiết bé nhất. Từng câu nói, cử chỉ, từ ngữ, cho đến bình luận về M&M. Nhiệm vụ của mấy chiếc đĩa bạc là nhắc ông biết rằng không có gì thoát khỏi sự quan tâm của cấp trên, và đừng nghĩ rằng ai đó có thể có vai trò quá lớn và một con người có thể lớn hơn một cái bánh răng trong bộ máy không lổ: Cộng hòa Nhân dân.

Bộ trưởng Chiang ngả người trên ghế bành ở vị trí chủ tọa và mời Lin ngồi cạnh. Mặc dù đã làm việc gần 30 năm ở Hải quân, đây là lần đầu tiên Lin gặp trực tiếp một thành viên của Hội đồng Quân sự Trung ương. Khi ông học ở Trường Kennedy hoặc Học viện Hải quân ở Newport, khi tham gia những buổi tập trận cùng với quân đội phương Tây, ông thường ngạc nhiên vì độ thân thiện giữa các cấp sĩ quan của họ. Các đô đốc thường nhớ và dùng tên riêng của sĩ quan. Thứ trưởng và Bộ trưởng quốc phòng trước học cùng trường, hoặc sĩ quan hóa ra học cùng lớp với chỉ huy. Các quân đội phương Tây có vẻ là bình đẳng hơn, mặc dù về hình thức, cơ sở tư tưởng của đất nước ông là chủ nghĩa xã hội. Ông chẳng là gì ngoài là “đồng chí” với các sĩ quan cấp cao, và ông biết điều đó. Khi ở Newport, ông đã nghiên cứu Trận Kursk, trong đó một trong những nhược điểm của xe tăng Xô-viết là chỉ có xe chỉ huy mới có liên lạc hai chiều. Các cấp dưới không có lý do gì để trao đổi với chỉ huy cả, họ chỉ là bánh xe trong cỗ máy. Từ đó đến giờ cũng không có nhiều thay đổi.

Màn hình ở cuối bàn bật sáng. “Chúng ta đã thắng một trận lớn. Anh đáng được xem nó.” Bộ trưởng giải thích. Đường liên lạc an toàn quá tốt, âm thanh hình ảnh rõ nét như nhìn ra cửa sổ vào phòng khác vậy. Phòng đó là cầu chỉ huy của Trịnh Hòa, và đô đốc Ma đứng giữa.

Ma Qiang giơ tay chào, không để ý đến Lin Bao và bắt đầu cập nhật tình hình. Họ đã đánh chìm 2 tàu khu trục Mỹ Carl Levin và Chung-Hoon. Chiếc đầu tiên nổ tung nên chỉ vài người trong số gần 300 thủy thủ đoàn sống sót. Chiếc thứ hai mất cả đêm mới chìm hẳn. Sáng nay lính của Ma đã vớt được một số thủy thủ Mỹ. Chiếc còn lại John Paul Jones đang bị nghiêng, nước tràn vào. Ma đã kêu gọi thuyền trưởng đầu hàng nhưng bà ta kiên quyết từ chối, bằng một ngôn ngữ tục tĩu đến mức phiên dịch viên còn băn khoăn khi dịch cho Ma. Hạm đội của Ma đã ở đây 36 tiếng và Ma lo rằng người Mỹ sẽ nhanh chóng có mặt. Ông xin phép được tiêu diệt nốt John Paul. “Đồng chí Bộ trưởng. Chúng tôi không nghi ngờ là sẽ đánh bại quân cứu viện. Nhưng tôi được chỉ thị là không để leo thang. Tôi có mấy chiếc J-312 có thể dùng để tấn công John Paul Jones. Tối đa là mất độ 52 phút. Đợi lệnh của đồng chí.”

Bộ trưởng đưa ray xoa cái cằm tròn và nhẵn. Lin Bao dán mắt vào màn hình. Ở đằng xa, sau các thủy thủ đang chạy đi chạy lại trên bong, ông có thể nhìn thấy được chân trời và một đám khói mờ lớn lơ lửng trên mặt biển. Phải mất một lúc ông mới hiểu được đó là tất cả những gì còn lại từ 2 con tàu Carl Levin và Chung-Hoon. Và có lẽ sắp tới là số phận của John Paul. Lo lắng của Ma là có cơ sở. Chiến dịch này ngay từ đầu đã được thiết kế với qui mô giới hạn. Mục tiêu cuối cùng là kiểm soát được biển Nam Trung Hoa, chỉ có thể không xảy ra trong 2 trường hợp: Hạm đội của ông không tiêu diệt được hết các tàu Mỹ hoặc một tính toán sai sẽ dẫn đến leo thang ra khỏi tầm một cuộc phô trương sức mạnh có thể đầy bạo lực nhưng đơn lẻ.

“Đô đốc Ma, anh tin rằng có thể cứu được John Paul?” Bộ trưởng Chiang hỏi.

Ma suy nghĩ một lúc, nói chuyện với ai đó ngoài màn hình trước khi quay lại: “Đồng chí Bộ trưởng, chúng tôi tin rằng John Paul sẽ chìm trong 3 tiếng nữa nếu không được trợ giúp.” Lin Bao thấy chiếc Trịnh Hòa đang xoay theo chiều gió để các tiêm kích cất cánh. Bỗng đằng xa xuất hiện một đám khói đen đặc. Đầu tiên Lin tưởng đó là một lỗi trên màn hình. Sau thì ông hiểu, John Paul đang bốc cháy cách đó chừng hơn chục hải lý.

Bộ trưởng Chiang gõ gõ ngón tay, như đang cân nhắc trước khi ra lệnh. Một trận đánh dứt điểm là quan trọng nhưng ông cũng phải cân nhắc để cuộc khủng hoảng không vượt quá tầm kiểm soát ảnh hưởng đến chủ quyền của đất nước ông ở Biển Nam Trung Hoa. “Anh được phép xuất kích, nhưng nghe đây, chúng ta phải gửi một thông điệp cực kỳ rõ ràng.”

06:42 MARCH 13, 2034 (GMT+4:30)

BANDAR ABBAS

“Cái chỗ hôi hám chết tiệt này.”

Không khí ẩm thấp bốc mùi bại hoại. Wedge nghĩ mình như đang bị giam trong nhà xí công cộng của bến xe buýt Greyhound. Anh bị bị mắt còng tay vào chiếc ghế thép đóng đinh xuống sàn nhà. Anh không nhìn thấy gì ngoài thi thoảng mấy cái bóng mờ loăng quăng và một quầng sáng trên cao mà anh cho có thể đó là cửa sổ.

Cửa kẽo kẹt mở. Wedge đoán đó là cửa thép. Tiếng những bước chân không đều, kiểu như người hơi bị thọt. Tiếng kéo ghế xiết trên sàn. Có ai đó vụng về ngồi im đối diện với anh, có vẻ như sợ chuyển động sẽ gây ra hậu quả kinh khủng. Wedge đợi ông ta nói trước, nhưng chỉ cảm thấy mùi thuốc lá. Anh rất thuộc Quy tắc ứng xử của Tù binh, trong mọi trường hợp không được lên tiếng trước.

“Thiếu tá Chris ‘Wedge’ Mitchell…” giọng đối diện vang lên.

Băng bịt mắt được tháo ra và Wedge chìm trong ánh sáng mặc dù căn phòng khá tối. Anh cố gắng, nhưng vẫn chưa tập trung nhìn ra người đối diện.

“Tại sao anh lại ở đây, thiếu tá Wedge?”

Mắt anh điều chỉnh dần dần. Người đối diện mặc quân phục xanh, có cầu vai vàng thể hiện đẳng cấp. Người rắn chắc như một vận động viên điền kinh và bộ mặt thù địch với một vết sẹo dài từ trên mày xuống dưới má. Mũi ông ta là một hình tam giác thu gọn kiểu như đã từng bị vỡ và nắn lại mấy lần. Tay ông ta đang cầm biển hiệu tên, được dán vào bộ đồ bay của Wedge.

“Không phải là Thiếu tá Wedge. Chỉ là Wede thôi. Và chỉ có bạn bè tôi mới gọi thế.”

Người đàn ông trong quân phục xanh khẽ cau mày như cảm giác bị tổn thương. “Khi chúng ta kết thúc ở đây, anh sẽ muốn tôi làm bạn.” rồi mời anh thuốc lá mà anh khoát tay không nhận. Người đàn ông nhắc lại “Tại sao anh ở đây?”

Wedge chớp mắt, quan sát căn phòng trống. Một cửa sổ có chấn song tít trên góc, in một hình chữ nhật ánh sáng lên sàn bê tông ẩm ướt. Chiếc ghế của anh. Chiếc bàn sắt. Chiếc ghế đối diện mà người đàn ông ngồi. Dựa trên cầu vai, anh đoán ông ta là chuẩn tướng. Trong góc xa của phòng có một cái thùng mà anh đoán là nhà vệ sinh của mình. Ở góc gần có trải một tấm nệm, chắc là giường ngủ. Trên tấm nệm có một sợi dây xích móc vào tường mà anh đoán mình sẽ bị xích vào khi ngủ, nếu họ định cho anh ngủ. Căn phòng như thời trung cổ, nếu không có cái camera treo chính giữa trần nhà. Bóng đèn đỏ nhấp nháy báo hiệu nó đang ghi lại mọi thứ.

Wedge cảm thấy một cơn kích động tràn xuống dạ dày. Anh thấy mình đang nghĩ về cụ của mình với câu chuyện vẽ mục tiêu lên kính lái, về Pappy Boyington, phi công vĩ đại nhất của Thủy quân lục chiến. Pappy cũng bị bắt và kết thúc chiến tranh trong trại giam của Nhật. Anh nghĩ về ông mình, thả napal và bắn rocket xuống Vùng 1 Chiến thuật ở Việt Nam trong khi con em ở nhà hút cần sa và đốt thẻ quân dịch. Anh nghĩ về bố mình. Người mà anh nghĩ sẽ tự kết tội mình nếu con ông ta chết mục xương ở cái nhà tù này. Wedge luôn mong muốn được như bố mình, kể cả nếu điều đó giết chết anh. Lần đầu tiên, anh nghĩ đến cái chết.

Viên tướng hỏi lại lần nữa tại sao anh ở đây.

Wedge trả lời như được huấn luyện: tên, quân hàm và số hiệu quân nhân.

“Không phải cái đó, tôi muốn hỏi tại sao anh ở đây?”

Wedge nhắc lại lần nữa.

Viên tướng gật đầu nghe chừng đã hiểu, ông ta đứng dậy đi lòng vòng và dừng lại đằng sau Wedge để cả hai tay lên vai anh, các ngón tay như càng cua muốn bóp lấy cổ Wedge. “Chúng ta chỉ có thể giải quyết tình huống này bằng cách hợp tác với nhau, Thiếu tá Mitchell. Dù có thích hay không thì sự thật là anh đã xâm phạm lãnh thổ chúng tôi và chúng tôi có quyền được biết tại sao anh làm thế và chấm dứt ở đây. Không ai muốn leo thang cả.”

Wedge nhắc lại câu trả lời lần thứ ba, nhìn lên cái camera.

“Tôi tắt cái camera đi nhé? Anh chỉ nói với tôi thôi. Không có gì sẽ bị ghi lại cả!”

Từ những khóa huấn luyện sống sót, Wedge biết rằng viên tướng muốn xử dụng kỹ thuật xây dựng lòng tin, và từ đó dẫn đến nhận tội. Mục tiêu của các cuộc thẩm vấn không phải là thông tin mà kiểm soát – kiểm soát cảm xúc. Một khi cảm xúc đã bị kiểm soát, bằng cách xây dựng quan hệ, hay thông thường hơn là bằng bạo lực, thông tin sẽ tự đến. Nhưng có gì đó ở đây không phù hợp với viên tướng này. Cấp bậc ông ta quá cao để là sĩ quan thẩm vấn đầu tiên. Ông ta có quá nhiều sẹo nếu là một sĩ quan tình báo. Và quân phục xanh của ông ta không phải là quân phục thông thường của quân đội Iran. Đó chỉ là trực giác của Wedge, trực giác của một phi công luôn được huấn luyện phải tin vào trực giác của mình trong và ngoài buồng lái. Lần này, niềm tin vào trực giác thuyết phục anh chuyển sang tấn công để giành quyền kiểm soát tình huống.

Viên tướng hỏi lại lần nữa tại sao Wedge lại đến đây.

Lần này anh không nhắc lại tên, cấp bậc và số hiệu nữa. Anh mặc cả: “tôi sẽ nói với ông nếu ông nói với tôi.”

Viên tướng ngạc nhiên “Tôi không tin là tôi hiểu ý anh.”

“Tại sao ông lại ở đây?” Wedge hỏi “Nếu ông nói với tôi, tôi sẽ nói với ông.”

Viên tướng không đứng đằng sau nữa mà quay trở lại ghế. Ông ta nghiêng người về phía tay tù binh cứng đầu: “Tôi ở đây để hỏi cung anh,” viên tướng ngập ngừng kiểu như câu nói sẽ làm ông ta mất mặt mà ông ta không nhận ra cho đến khi phát âm hết chữ cuối cùng.

“Vớ vẩn!” Wedge nói

Viên tướng đứng dậy.

“Ông không phải là sĩ quan hỏi cung. Với bộ mặt thế kia mà ông bảo tôi tin ông là mấy tay liệt dương bên tình báo ư?”

Mặt ông ta đỏ lên vì xấu hổ, đến tận chân vết sẹo.

“Ông phải ra mặt trận với những người lính của mình,” Wedge nói và mỉm cười liều lĩnh. Anh đã đánh cược và từ phản ứng của viên tướng, anh biết là mình đã đúng và đã kiểm soát được tình hình.

“Vậy tại sao ông lại ở đây? Ông đã gây tội gì với ai mà giờ phải hạ mình làm cái công việc nhảm nhí này?”

Viên tướng chồm lêm và giáng cho Wedge một nắm đấm mạnh đến nỗi chiếc ghế anh ngồi bị long vít bật ra khỏi sàn. Wedge gục xuống bất động như một hình nhân ma-nơ-canh. Anh nằm nghiêng với bàn tay vẫn bị xích vào ghế, hứng chịu những cú đấm liên tiếp. Chiếc camera trên trần với cái đèn hiệu màu đỏ đã thôi nhấp nháy là thứ cuối cùng mà Wedge nhìn thấy.

2034, PHẦN III: SỐNG ĐỂ KỂ LẠI

11:01 MARCH 13, 2034 (GMT+8)

BIỂN ĐÔNG

Hai tia chớp bạc xuất phát từ chân trời phía đông, lượn vòng quanh con tàu đang bị trọng thương John Paul Jones. Hơn một nửa thủy thủ đoàn đã mất mạng hoặc nổ tung sau 2 quả thủy lôi táng trực diện, hoặc chết đuối trong các khoang được đóng lại để cứu con tàu. Rất ít người bị thương, như trong bao trận hải chiến khác. Ở đây không có hậu phương để chữa trị, chỉ có biển cả mênh mông.

Cả tàu gần như nín thở chết lặng khi 2 chiến đấu cơ lao vào mà không tấn công. Một hy vọng mong manh: hay là đây là máy bay ta từ Yokosuka hoặc 1 hàng không mẫu hạm đồng minh nào đó đến ứng cứu. Chỉ khi các thủy thủ thấy bom và tên lửa treo lủng lẳng dưới cánh và hai phi cơ rất thận trọng tiếp cận, họ mới biết đó chỉ là ảo tưởng.

Thuyền trưởng Sarah Hunt không có thời gian để đồn đoán. Toàn bộ quan tâm của bà vẫn ở chỗ mà quả thủy lôi đầu tiên nổ tung ngày hôm qua. Bà cần phải giữ được soái hạm, mà giờ đây đã trở thành con tàu của bà. Thuyền trưởng Morris đã mất tích ngay sau vụ nổ thứ hai. Hunt cũng không liên lạc gì được với 2 tàu còn lại của bà ngoài việc nhìn chúng bị vỡ ra rồi chìm xuống. Bà biết là tàu và thủy thủ đoàn của mình cũng sắp phải hứng chịu số phận tương tự. Mặc dù họ đã dập tắt được các đám cháy, nhưng nước đang tràn vào nhiều hơn họ có thể bơm ra. Những tấm thép của vỏ tàu đang kêu lên kèn kẹt như con gấu bị thương, dưới áp lực nước ngày càng tăng, sắp không trụ vững được nữa rồi.

Hunt đứng trên cầu tàu, cố gắng tỏ ra bận rộn. Kiểm tra đi kiểm tra lại mấy cái máy liên lạc đã mất tín hiệu, gửi người đi đánh giá các hư hỏng, đánh dấu vị trí tàu trên hải đồ bằng tay, vì GPS đã không hoạt động. Bà làm thế để thủy thủ đoàn khỏi tuyệt vọng khi thấy chỉ huy của mình bất lực, và khỏi phải tưởng tượng cảnh nước sẽ dâng ngập “cột buồm”. Bà ngước nhìn lên 2 chiến đấu cơ từ Trịnh Hòa và ước gì chúng đừng vòng vo trêu ngươi nữa mà thả bom ngay đi để bà có thể chìm xuống cùng con tàu của mình.

“Thưa chỉ huy…”, một anh lính liên lạc đứng sau bà bất ngờ xen vào, chỉ về hướng đường chân trời.

Hai chiếc phi cơ đã thay đổi góc tấn công và đâm thẳng vào John Paul Jones. Chúng bay thấp và rất nhanh nối đuôi nhau. Ánh mặt trời lóe lên dưới cánh làm Hunt lầm tưởng là chúng đã nã đại bác. Bà nhăn mặt, nhưng không nghe thấy đạn đập vào tàu. Khoảng cách đang rút ngắn lại. Hệ thống phòng không của John Paul đã hoàn toàn bị vô hiệu hóa. Một sự im lặng bao trùm cầu tàu. Mọi thứ, vị trí chỉ huy của bà, con tàu và đoàn thủy thủ tất cả như tan chảy ra vào thời khắc cuối cùng của mình. Anh lính liên lạc, chắc chỉ tầm hơn 19 tuổi ngước nhìn bà. Bất giác, Hunt đưa tay ôm lấy anh ta. Hai chiếc máy bay đã gần đến nỗi bà có thể quan sát rõ những gợn sóng khí dưới cánh. Chỉ một tích tắc thôi, chúng sẽ thả bom.

Hunt nhắm mắt lại. Đợi một tiếng nổ sấm sét!

Nhưng không có gì xảy ra cả.

Bà ngẩng đầu lên. Hai phi cơ cuốn lấy nhau bốc lên cao như chơi trốn tìm trên những tầng mây. Sau đó chúng lại xà xuống, bay chậm như đứng lại, cách mặt biển chỉ vài chục mét. Phi cơ đầu tiên bay qua trước mũi tàu gần đến nỗi Hunt nhìn thấy phi công trong buồng lái, rồi nghiêng cánh chào. Hunt tin rằng đây là thông điệp mà anh ta phải mang đến cho bà.

Hai chiếc máy bay lại ngóc lên cao và biến mất về nơi chúng đã bay đến.

Cầu tàu im phăng phắc. Bỗng có tiếng lạo xạo. Lần đầu tiên sau nhiều ngày, họ bắt được sóng liên lạc!

12:06 MARCH 13, 2034 (GMT+8)

BẮC KINH

Màn hình phụt tắt và kéo lên trần. Buổi họp video kết thúc. Chỉ còn Lin Bao và Bộ trưởng Chiang ngồi bên bàn hội nghị mênh mông.

“Anh có nghĩ là Đô đốc Ma không hài lòng với tôi?”

Câu hỏi làm Lin bất ngờ. Ông không bao giờ nghĩ một người ở cương vị như Chiang lại quan tâm đến cảm xúc của cấp dưới. Không biết trả lời thế nào, ông giả vờ như không nghe thấy câu hỏi, làm cho Bộ trưởng Chiang phải đắn đo là tại sao ông lại hỏi như vậy. Bộ trưởng cau mày:

“Ma Chiang là một viên tướng tuyệt vời, rất quyết liệt, hiệu quả, thậm chí hung bạo. Nhưng chính sự hiệu quả là điểm yếu của anh ta. Anh ta chỉ là một con chó săn. Như nhiều sĩ quan quân sự khác, anh ta không hiểu sự tinh tế. Anh ta tin là tôi đã ngăn cản anh ta lập đại công bằng cách tha cho John Paul. Nhưng anh ta không hiểu mục tiêu thực sự của nhiệm vụ của mình.

“Vậy mục tiêu thực sự là gì vậy?” Lin Bao không dám hỏi thành tiếng mà im lặng chờ đợi Bộ trưởng nói tiếp: “Lin Bao, anh học ở phương Tây, anh chắc hẳn phải nhớ câu chuyện Aristodemus.”

Lin Bao gật đầu. Ông biết câu chuyện Aristodemus, người chiến sĩ Sparta nổi tiếng, duy nhất sống sót sau trận Thermopylae mà ông được học trong seminar “Lịch sử chiến tranh” tại Trường Kennedy của một giáo sư hâm mộ Hy lạp cổ đại. Trước trận đánh cuối cùng của “Ba Trăm Chiến binh”, Aristodemus bị đau mắt. Vua Sparta Leonidas đã cho anh về nhà, trước khi quân Ba Tư tiêu diệt sạch đội quân của nhà Vua.

Lin Bảo nói: “Aristodemus là người Sparta duy nhất còn sống để kể lại câu chuyện.”

Bộ trưởng Chiang ngả người trên ghế. “Đó là điều mà Ma Qiang không hiểu,”, ông vừa nói vừa cười nửa miệng. “Nhiệm vụ của anh ta không phải là đánh chìm hạm đội Mỹ. Nhiệm vụ của anh ta là chuyển một thông điệp. Nếu cả hạm đội mất hút, thì thông điệp cũng sẽ bị mất hút. Ai là người sẽ chuyển thông điệp? Bằng cách thể hiện một sự kiềm chế và để lại những người sống sót, chúng ta có thể gửi thông điệp một cách rõ ràng hơn. Chúng ta không muốn bắt đầu một cuộc chiến vô nghĩa. Chúng ta muốn người Mỹ cuối cùng phải lắng nghe và tôn trọng chủ quyền lãnh hải của ta.”

Sau đó Bộ trưởng khen ngợi Lin Bao trong vai trò tùy viên quân sự tại Mỹ, đã thành công trong việc sử dụng Wen Rui để bẫy John Paul Jones. Trách nhiệm của người Mỹ trong việc bắt giữ chiếc tàu trinh sát dưới vỏ bọc tàu đánh cá sẽ làm bịt mồm sự hò hét phản đối ở Liên hiệp quốc, rồi từ tổ chức vốn đã không hiệu quả này thẩm thấu đến các tổ chức khác cũng vô dụng như thế. Bộ trưởng trầm ngâm chia sẻ cách nhìn của ông về những sự kiện sắp xảy ra trong những ngày tới. Ông tưởng tượng ra cảnh những thủy thủ sống sót kể lại câu chuyện họ bị Trịnh Hòa đè bẹp như thế nào. Ông tưởng tượng, thường trực Bộ chính trị thỏa thuận với chính quyền Iran để thả chiếc F-35 và viên phi công để làm hài lòng người Mỹ. Và cuối cùng, ông tưởng tượng là chính phủ và Hải quân nước ông thực thi quyền kiểm soát hoàn toàn Biển Nam Trung hoa, hoàn thành giấc mơ của nhiều thế hệ.

Bộ trưởng có vẻ rất phấn khích khi kết thúc chuỗi suy tưởng của mình. Ông đặt tay lên cổ tay Lin Bao: “Đất nước nợ anh. Tôi nghĩ là anh nên dành một chút thời gian cho gia đình. Nhưng chúng ta cũng nên nghĩ về tương lai. Anh muốn cương vị nào?”

Lin Bao ngồi thẳng lên, nhìn thẳng vào mắt Bộ trưởng, hiểu rằng cơ hội này sẽ khó lặp lại: “Tôi muốn được chỉ huy trên mặt biển, thưa đồng chí Bộ trưởng.”

“Tốt, “, Bộ trưởng khẽ khoát tay ra sau khi đứng dậy, như là đã phê duyệt yêu cầu này của Lin Bao, rồi đi ra cửa. Lin Bao thu hết can đảm, nói thêm: “Đặc biệt, thưa đồng chí Bộ trưởng, tôi muốn chỉ huy hạm đội Trịnh Hòa.”

Bộ trưởng dừng lại, ngoái đầu: “Anh muốn lấy cương vị của Ma Qiang?” rồi cười phá lên. “Có thể tôi đã hiểu sai về anh. Có thể anh cũng là người tàn bạo. Để xem chúng ta có thể thu xếp được không. Nhớ lấy hết mấy cái kẹo M&M đi nhé.”

16:07 MARCH 22, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Chow đã ngủ ở văn phòng 10 ngày liền. Mẹ ông trông con gái. Vợ cũ không quấy rối dù là email hay tin nhắn, ngay cả sau khi Interner và điện thoại hoạt động trở lại. Cuộc sống cá nhân của ông ơn trời bình yên. Có lẽ nhờ cuộc khủng hoảng đang bao trùm đất nước và gia đình biết ông đóng vai trò trung tâm trong việc xử lý nó.

Các đối thủ lâu đời từ hai cánh chính trị tả hữu, sẵn sàng xả hàng chục năm khó chịu giận dữ vào cuộc kích động mới này. TV, báo chí ngay lập tức hiểu được điều gì đã xảy ra ở Biển Nam Trung hoa và trên bầu trời Iran.

Một hạm đội bị đánh chìm

Một phị công bị bắt

Kết quả là sự đoàn kết và giận dữ của công chúng.

Sự phẫn nộ càng ngày càng lớn, đôi lúc trở nên trở nên điếc tai. Từ những bình luận buổi sáng đến tin tức cuối ngày, công chúng đòi hỏi: Chúng ta phải làm gì đó. Trong nội bộ chính quyền, nhóm do Wisecarver dẫn dắt, đi theo trí tuệ của đám đông, tin rằng quân đội Mỹ phải chứng tỏ cho thế giới quyền lực tối thượng của mình. Tổng thống thì hơi nghi ngờ. Không phải đội của bà, bao gồm cả Chow, tìm cách tránh né những gì đang được thảo luận trong chính quyền, trên màn hình, trên báo chí. Họ nghi ngờ việc leo thang khi tình huống có vẻ như đã vượt quá kiểm soát. Họ đang dò dẫm.

Sau 10 ngày khủng hoảng, chiến lược giảm nhiệt có vẻ thất bại. Cũng như vụ chìm tàu Lusitania trong Thế chiến thứ Nhất, hay những lời than khóc của “Hãy nhớ Maine” trước thềm cuộc chiến Mỹ-Tây Ban Nha, một loại cái tên mới đã ăn vào trí nhớ của dân Mỹ. Họ biết Carl Levin và Chung-Hoon đã chìm, còn John Paul thoát nạn. Mà cũng không hẳn là tự thoát, mà được một tàu ngầm lai về sau khi cứu các thủy thủ trên bong, trong đó có chỉ huy hải đội, người đang được Hải quân giấu mặt vì phải thẩm tra.

Nếu cái tên Sarah Hunt, cho đến giờ vẫn giữ được kín đáo tương đối, thì thiếu tá thủy quân lục chiến Chris “Wedge” Mitchell có số phận ngược lại. Sau trận hải chiến một chiều tại Đá Vành Khăn, các quan chức cao cấp Trung quốc đã tiếp cận chính phủ Mỹ, bao gồm Bộ trưởng quốc phòng Chiang, người tích cực khẳng định đây chỉ là một sự hiểu lầm lớn. Để thể hiện thiện chí, ông ta đề nghị sẽ sẽ trực tiếp thương thảo để Iran trả lại chiếc F-35 và thả phi công. Khi đoàn Trung quốc mang theo thông điệp này đến sứ quán Mỹ tại New Delhi (do đại sứ quán của họ tại Washington bị đóng cửa vì khủng hoảng), chính phủ Mỹ đã đáp trả đỉnh điểm của sự dối trá khi chính quyền Trung quốc giả vờ cho rằng chiếc F-35 sẽ được trả lại nguyên vẹn mà không bị Trung quốc và Iran ăn cắp những công nghệ nhạy cảm. Nhưng sức ép phải mang phi công về ngày càng cao.

Ai đó trong chính phủ đã lộ tên của Thiếu tá Mitchell ra ngoài cho một hãng truyền hình, 3 ngày sau khi anh bị mất tích. Người dẫn chương trình đã đến tận nhà anh tại Kansas City, Missouri và tìm thấy câu chuyện tuyệt vời về 4 thế hệ phi công. Cuộc phỏng vấn được truyền trực tiếp từ phòng khách với các kỷ niệm chiến tranh từ hơn 100 năm, từ lá cờ chiến của Nhật đến bộ đồ bay vấy máu. Ống kính ghi hình bố của Mitchell, kể chuyện về cậu con trai, mắt nhìn trống rỗng ra sân, nơi có cái cây lớn phải sử dụng chạc thép để đỡ những cành nặng nề. Mitchell bố kể về truyền thống gia đình, đời ông của ông trong phi đội Cừu Đen trong Thế chiến II. Chương trình còn khoe ảnh Thiếu tá Mitchell “Wedge” đẹp trai cùng với ảnh bố anh, ảnh Pop và Pop Pop của ông ấy, những thế hệ liên kết nước Mỹ hiện nay với nước Mỹ một thời hoàng kim thuở trước.

Khi video được đưa lên mạng, đã có hàng triệu truy cập ngay trong giờ đầu tiên.

Tại cuộc họp Hội đồng An ninh Quốc gia ở Phòng Tình huống trong ngày thứ năm của cuộc khủng hoảng, tổng thống hỏi mọi người đã xem đoạn phỏng vấn đó chưa? Tất cả đều đã xem. Thẻ #FreeWedge tạo sóng trên mạng xã hội. Chỉ cần nhìn ra bất cứ một cửa sổ nào của Cánh Tây cũng thấy cả rừng cờ đen POW/MIA (Tù binh – Mất tích) che lấp bóng dáng thành phố. Tổng thống ngạc nghiên thành tiếng tại sạo số phận của 1 phi công lại gây cảm xúc mạnh hơn cái chết của hàng trăm thủy thủ ở Biển Hoa Nam. Cả phòng yên tĩnh. Mỗi nhân viên đều biết rằng bà chuẩn bị ký lời chia buồn gửi gia đình các thủy thủ Carl Levin, Chung-Hoon và John Paul Jones vừa thiệt mạng. Bà lắc đầu tự hỏi, tại sao anh ta lại quan trọng hơn họ?

“Anh ta là hồi ức sống lại, thưa Bà,” Chow buột miệng

Hơn nửa nội các quay lại làm ông ngay lập tức cảm thấy hối tiếc vì đã phát biểu. Ông thậm chí còn không ngồi, mà đang đứng dựa lưng vào tường như các nhân viên cấp hai khác. Ông nhìn xuống tay mình, làm như thể là cả phòng sẽ nghĩ là không phải ông vừa phát biểu, mà là ai đó đã chơi trò giấu giọng.

Tổng thống từ tốn nhưng nghiêm túc đề nghị ông giải thích.

“Wedge là một mắt xích của cả chuỗi sự kiện,” Chow hơi lưỡng lự bắt đầu nhưng bắt được tự tin ngay. “Gia đình anh ta gắn chúng ta với thời ta đã đánh bại quân đội đối phương trong một cuộc đối đầu trực tiếp. Cả nước đang có cảm giác là thời đó bây giờ đang lại đến. Anh ta nhắc mọi người là như một dân tộc chúng ta có thể làm được gì. Vì thế mà họ đầu tư để thổi anh ta lên.”

Không ai đồng ý hoặc không đồng ý với Chow.

Sau mấy nhịp im lặng, tổng thống thông báo là bà chỉ có một mục tiêu duy nhất là tránh được leo thang đến đối đầu trực tiếp như Chow vừa nhắc đến. “Mọi người rõ chưa?” bà nhìn quanh.

Tất cả gật đầu, nhưng sự căng thẳng chỉ rõ là không phải ai cũng đồng ý.

Tổng thống đứng dậy và cùng đoàn trợ lý rời phòng họp. Cuộc nói chuyện lại ồn ào tiếp tục. Các bộ trưởng, cục trưởng chụm vào nhau, trong hành lang, cứ như bàn tán thuyết âm mưu nào đó. Hai nhân viên văn phòng kiểm tra lại chắc chắn không ai để quên ghi chép hoặc tài liệu gì.

Khi Chow quay về chỗ làm việc của mình, xếp ông ta là Trent Wisecarver đã đợi. “Sandy…”, Chow cảm thấy ngay là sếp không hài lòng, hệt như đứa trẻ chỉ cần nghe giọng nói của bố mẹ là biết nó đã làm gì đó sai trái. Chow bắt đầu lắp bắp, xin lỗi vì việc đã không kiềm chế phát biểu trong cuộc họp và bảo đảm điều đó sẽ không lặp lại. Hơn chục năm trước, con trai Wise chết vì coronavirus. Nhiều người tin rằng bi kịch này đã hình thành tính cách diều hâu của ông, làm ông cảm thấy sai lầm của người cha trong mỗi nhân viên mà ông coi như con mình.

“Sandy,” Wise nhắc lại, giọng đã mềm và hiền hòa hơn. “Về nhà nghỉ ngơi đi.”

03:34 MARCH 20, 2034 (GMT+4:30)

TEHRAN

Đầu tiên Wedge nghĩ là anh ta đang ở nhà. Anh thức dậy trong một căn phòng tối, chăn gối sạch sẽ. Nhưng không nhìn thấy gì. Sau đó anh thấy 1 dải sáng bên dưới, có thể là khe cửa đóng kín. Anh ngóc đầu dậy để nhìn rõ hơn. Và cảm thấy đau nhói. Cùng với cảm giác đau đớn, anh nhận ra mình đang ở rất xa nhà. Anh ngả đầu xuống gối, mở to mắt.

Wedge mất cả đêm để nhớ lại. Anh không nhớ sự việc đã bắt đầu thế nào, nhưng các chi tiết dần hiện ra. Đánh võng dọc biên giới, mất kiểm soát, cố gắng nhảy dù, hạ cánh xuống Bandar Abbas, hút Marlboro trong buồng lái, người đàn ông với những vết sẹo, sức ép của bàn tay ba ngón lên vai mình…

Anh chạy lưỡi trong miệng và thấy mấy chỗ răng mất. Môi mặn và phồng rộp. Ánh sáng chui qua các khe rèm cửa. Wedge bắt đầu nhận thức được xung quanh, nhưng anh chỉ nhìn được lờ mờ. Một mắt sưng vù, còn mắt kia thì không rõ lắm.

Mắt thế này thì anh sẽ không thể bay được nữa. Mọi thứ khác đều sẽ lành lại. Mọi thứ khác đều có thể làm lại. Không phải mắt!

Anh thử đưa tay lên mặt nhưng không được. Cổ tay đã bị xích vào giường. Cái giường kêu lạch xạch khi anh cố rướn lên để chạm được tay vào mặt. Có những bước chân vội vã đi đến phòng anh. Cửa mở, một y tá trẻ trùm đầu xuất hiện chính giữa ô sáng. Cô ta đưa tay lên miệng ra dấu cho anh im lặng. Cô không tiến lại quá gần, chắp tay như một cử chỉ xin lỗi và lên tiếng mềm mỏng bằng một ngôn ngữ mà Wedge không hiểu. Sau đó cô ấy đi ra, và Wedge có thể nghe tiếng chân cô chạy dọc hành lang.

Đèn trong phòng bật lên. Cuối phòng có TV treo trên cánh tay sắt. Có dòng chữ gì đó viết ở phần dưới chiếc TV.

Wedge ngả cái đầu đau nhói lên gối và tập trung nhãn lực của con mắt còn lại vào phần dưới chiếc TV. Các chữ cái hiện lên rõ nét dần dần, rồi cả dòng chữ. Và cuối cùng anh có thể nhìn thấy rõ ràng như mắt 10/10 cái tên tuyệt diệu và đầy cảm xúc: PANASONIC

Anh nhắm mắt và nuốt cục cảm xúc trào lên trên cổ họng.

“Chào Thiếu tá Wedge,” ai đó vừa vào nói bằng thứ tiếng Anh rời rạc. Wedge quay đầu về hướng đó. Đó là một người Ba tư, mặt xương gồ ghề như những nhát chém, và bộ râu được tỉa tót chính xác. Anh ta dùng các ngón tay dài lần theo mạch máu trên tay Wedge vẫn đang bị xích vào giường.

Wedge nhìn viên bác sĩ với ánh mắt thách thức nhất có thể.

Anh bác sĩ này giải thích một cách thân thiện như để lấy lòng “Ông bị một tai nạn, thiếu tá ạ. Nên chúng tôi mang ông tới đây, Bệnh viện Arad, tôi cam đoan là tốt nhất Tehran. Chấn thương của ông khá nặng và tôi cùng các đồng nghiệp đã chăm sóc ông suốt tuần qua.” Anh ta gật đầu về phía cô y tá đi theo mình quanh giường Wedge như thể cô ta là trợ lý cho một nhà ảo thuật đang biểu diễn. “Chúng tôi muốn đưa ông về nhà, nhưng chính quyền ông đang có một chút cản trở. Nhưng tôi tin là mọi việc sẽ được thu xếp và ông sẽ sớm được về nhà. Ông yên tâm chứ, thiếu tá?”

Wedge không nói gì và vẫn nhìn chằm chằm vào viên bác sĩ.

“Ok, ít nhất thì ông cũng có thể cho tôi biết hôm nay ông cảm thấy thế nào?” Viên bác sĩ nói không thoải mái lắm.

Wedge nhìn lên TV. Chữ PANASONIC lấy nét nhanh hơn hẳn. Anh mỉm cười và quay về phía bác sĩ nói những điều mà anh quyết tâm sẽ chỉ nói cho bọn khốn này: tên, cấp bậc và số hiệu.

09:42 MARCH 23, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Ông đã làm điều sếp bảo! Về nhà. Dành cả chiều chơi với Ashni. Ông rán thịt gà và khoai tây hai bố con, ăn xong xem phim: Anh em nhà Blues, đều là khoái khẩu. Ông đọc cho con nghe 3 cuốn sách của Dr Seus, và đến nửa cuốn thứ ba thì lăn ra ngủ, mãi đến nửa đêm mới mò về giường của mình. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy, ông nhận được mail của Wisecarver. Tiêu đề: Hôm nay. Nội dung: Nghỉ ở nhà nhé

Thế là ông đưa con đến trường. Rồi về nhà. Tự pha café, rán trứng, nướng bánh, và thịt nguội. Rồi suy nghĩ xem mình biết làm gì nữa. Còn phải 2 tiếng nữa mới đến giờ ăn trưa. Ông đi bộ ra Công viên Logan, cầm theo chiếc tablet để check thông tin. Tất cả, từ quốc tế, quốc nội, xã luận, ý kiến độc giả đến nghệ thuật… tất cả đều liên quan kiểu gì đó đến cuộc khủng hoảng 10 ngày qua. Các bài xã luận mâu thuẫn nhau. Có cái thì cảnh báo về cuộc chiến rởm, không khéo Sự kiện Vành Khăn, lại giống Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, và cảnh báo các nhà chính trị cơ hội, lại giống như 70 năm trước, sử dụng việc này để thúc đẩy các mục tiêu vớ vẩn ở Đông Nam Á. Bản xã luận khác đi xa hơn vào lịch sử để tìm góc nhìn đối lập, nhấn mạnh sự nguy hiểm của việc nhân nhượng: “Nếu chặn đứng được phát xít Đức ở Sudetenland (vùng đất của Tiệp được đồng minh nhượng cho Đức để tránh chiến tranh – NTN), có thể đã tránh được cuộc đổ máu thảm khốc của thế chiến II.”

Chow bắt đầu đọc lướt, tới bài “Ở Biển Hoa Nam, làn sóng kích động xâm lược đã nổi lên đe dọa nhấn chìm thế giới tự do.” thì ông khó có thể nuốt hết được những lời lẽ hùng biện cao cả để đẩy đất nước tới cuộc chiến.

Chow nhớ một ông bạn học từ khóa cao học ở Học viện Hải quân, một thủy thủ tái ngũ, bắt đầu sự nghiệp từ vị trí một nhân viên bệnh viện cho Thủy quân lục chiến ở Iraq. Một hôm đi học qua chỗ ngồi của anh ta, Chow thấy một postcard có hình con tàu Maine bị đánh gẫy. Khi Chow cười lớn nhận xét là mình thì muốn gắn một một con tàu không bị nổ và chìm lên chỗ làm việc, thì anh bạn đã nghiêm mặt trả lời: “Tôi giữ nó vì hai lý do. Thứ nhất là tấm gương về việc tự mãn sẽ giết chết ta – một con tàu đầy nhiên liệu và vũ khí có thể nổ bất cứ lúc nào. Nhưng quan trọng hơn, tấm hình này nhắc tôi là khi Maine nổ tung năm 1898, khi chúng ta chưa có mạng xã hội, chưa có Tin nóng 24h, chúng ta không có vấn đề gì khi biến nó thành một cuộc lên đồng của dân tộc, đổ tội cho bọn “khủng bố Tây ban nha” rồi dẫn tới cuộc chiến tranh Tây ban nha – Mỹ. Năm mươi năm sau, sau một cuộc điều tra đầy đủ, anh biết họ tìm ra cái gì không? Maine nổ tung từ bên trong vì một nồi hơi bị xì hay một khoang đạn bén lửa. Chẳng có khủng bố nào cả. Bài học của Maine, hoặc ngay cả Iraq, nơi tôi chiến đấu, là tốt hết hãy biết thật rõ cái gì đang xảy ra trước khi đánh nhau.”

Chow đóng máy tính. Đến giờ ăn trưa rồi. Ông thả bộ về nhà, trầm tư. Ông mong muốn hạ nhiệt khủng hoảng không phải vì bất cứ xu hướng nào trong quá khứ. Ông là thành viên Hội đồng An ninh Quốc gia, là người tin vào vũ lực. Ông sợ leo thang vì trực giác. Sai lầm cố hữu của tất cả các cuộc chiến là khi bắt đầu bên nào cũng nghĩ là mình sẽ thắng.

Ông thử tìm các chữ để miêu tả suy nghĩ của mình, kiểu như viết sách trắng cho chính bản thân. Câu đầu tiên sẽ là. “Nước Mỹ mà chúng ta tin là như thế, đã không còn là Nước Mỹ mà chúng ta đang là như thế”.  Ông cân nhắc, liệu câu khẳng định đó đã đầy đủ, liệu thổi phồng sức mạnh Mỹ sẽ mang lại đại họa? Nhưng đang giờ ăn trưa, và ông không thể làm gì để có thể trả lời các câu hỏi sống còn đó. Cuộc khủng hoảng hy vọng sẽ qua đi. Những cái đầu lạnh sẽ thắng, như mọi khi.

Ông mò tìm trong tủ lạnh. Rỗng.

Trong phòng có tiếng nhạc hiệu của CNN. Người dẫn chương trình công bố tin nóng hổi: “Chúng tôi mới nhận được video độc quyền về phi công bị bắt, Thiếu tá Mitchell.”

Chow đập đầu vào tủ lạnh khi vội ngước nhìn lên. Trước khi ông kịp chạy đến, biên tập viên cảnh báo, video có thể chứa những hình ảnh bạo lực, khán giả cần chú ý. Chow không cần phải xem. Ông biết là nó tệ đến mức nào. Ông phi ra cửa, nhảy lên xe, phóng đến văn phòng, quên cả tắt TV.

Không thích nhờ vả vợ cũ, Chow nhắn tin nhờ mẹ đón hộ Ashni ở trường. Mẹ anh trả lời ngay lập tức, không hề than phiền vì bị đổi kế hoạch như mọi khi. Có thể bà ấy cũng đã xem video, Chow nghĩ vậy. Chow nghe đủ các đài radio trong quãng đường 15 phút đến văn phòng: MSNBC, Fox, NPR, WAMU, ngay cả đài hiphop WPGC cũng nói về những điều họ mới thấy. Wedge nằm nghiêng trên sàn dưới những đòn đấm đá tàn bạo của viên sĩ quan Iran, vẫn chỉ nhắc lại tên, cấp bậc và số hiệu.

Các quan điểm khác nhau nhanh chóng hội tụ: Chúng ta phải noi gương kiên cường bất khuất của người phi công. Không ai có thể dọa nạt được nước Mỹ. Hay chúng ta đã quên mất mình là ai? Đã quên mất tinh thần của các cha già lập quốc? Chow nhớ lại cuộc họp hôm qua tại Phòng Tình huống và chỉ thị phải hạ nhiệt của tổng thống. Với sự xuất hiện của video này, có vẻ không còn cơ hội cho hạ nhiệt.

Khi ông ào vào văn phòng, người đầu tiên ông gặp là Hendrickson. Hai người đã không gặp nhau từ khi cuộc khủng hoảng bắt đầu. Văn phòng Hội đồng An ninh toàn người bên Lầu Năm góc sang để hỗ trợ – đôi khi là cản đường – các đối sách của chính quyền với Iran.

“Video xuất hiện khi nào vậy?” Chow hỏi. Hendrickson kéo ông ra hành lang, nhìn quanh, rồi thì thào ra vẻ bí mật “Đêm qua. Bộ chỉ huy Mạng (đáng tiếc là không phải NSA) giải mã được tín hiệu. Có vẻ như ông tướng Iran mất kiểm soát. Ông này có quan hệ cao. Cấp trên không tin là ông ta lại làm như thế cho đến khi có video. Chúng ta đã lấy được từ email nội bộ. Người Iran chưa bao giờ giỏi trong việc bảo đảm an ninh mạng. Họ thích tấn công, nhưng đôi khi quên gài cửa sau.”

“Nhưng làm sao báo chí lại có?” Chow hỏi

Hendrickson nhìn với cái nhìn chán ngán mà Chow đã quá quen với hồi học cùng ở Trường Fletcher, mỗi khi ông hoặc bạn cùng lớp hỏi câu hỏi mà câu trả lời đã quá rõ ràng với Hendrickson. Nhưng ông này cũng trả lời theo nghĩa vụ: “Rò rỉ, chứ anh nghĩ thế nào?”

Trước khi Chow kịp hỏi nghi ngờ cho ai rò rỉ, Trent Wisecarver bước ra khỏi phòng, đi vào hành lang. Cặp kính không gọng kẹp trên mũi, cứ như là đang đọc sách. Ông cắp nách mấy tệp tánh liệu được đánh dấu TỐI MẬT. Dựa trên độ dày, và lại là tài liệu giấy chứ không phải điện tử, Chow đoán đây chắc là kế hoạch tác chiến cực kỳ nhạy cảm. Khi thấy Chow, Wisecarver nhăn mặt: “Tôi đã bảo anh ở nhà cơ mà.”

16:23 APRIL 09, 2034 (GMT+9)

CĂN CỨ HẢI QUÂN YOKOSUKA

Thuyền trưởng Sarah Hunt bước ra khỏi căn-tin. Đã 3 tuần bà bị kẹt lại ở căn cứ, không có xe, ở trong phòng của sĩ quan cần vụ, có mỗi cái TV suốt ngày chiếu chương trình quân đội Mỹ chán ngắt, một cái bếp nhỏ và tủ lạnh không làm được đá. Tại sao Hải quân lại chọn thẩm tra bà ở đây chứ không phải tại cảng gốc San Diego? Bà đoán là có thể họ không muốn gây chú ý. Nhưng không chắc lắm. Hải quân vốn không quen giải trình với bất cứ ai, nhất là với chính mình, ít nhất là ở mức độ cấp bậc của bà. Vì thế, từ lúc thoát khỏi Trận Đá Vành Khăn đến giờ, bà vẫn phải tiếp tục phải sống trong căn phòng đơn sơ này, mỗi ngày 1 hoặc 2 lần đến tòa nhà văn phòng xấu xí để trả lời các câu hỏi trước máy ghi âm, hy vọng là quá trình điều tra sẽ nhanh chóng trả lại thanh danh để bà có thể nghỉ hưu một cách nhẹ nhàng.

Bà đang bắt đầu nghĩ là Hội đồng thẩm tra có thể sẽ chẳng bao giờ ra được quyết định thì nhận được tin vui dưới dạng hòm thư thoại của người bạn cũ Chuẩn Đô đốc John Hendrickson. Ông này bảo đang tình cờ có việc ở căn cứ và muốn ghé qua uống nước. Khi Hendrickson dạy tại Annapolis, ông này còn xung phong huấn luyện đội Softball (bóng mềm), và Hunt là một ngôi sao trong đội ông. Với cách mà bà bảo vệ gôn nhà, cả đội đặt biệt hiệu cho bà là “Tường Đá”. Không biết bao nhiêu lần cầu thủ tấn công đối phương nằm ngửa ngắm trời trên lưng bà, còn Hạ sĩ Sarah “Tường Đá” đứng đó, tay cầm bóng, cười đắc thắng, còn trọng tài rống lên “Outtt!”

Sarah đang đứng trả tiền ở căn-tin. Bà mua 2 bịch bia IPA, một hộp hạt các loại, một ít phó mát và bánh qui. Khi đứng trong hàng, bà không thể nào bỏ qua được cảm giác là các thủy thủ khác đang nhìn mình. Họ biết bà là ai, nhìn trộm mà giả vờ không nhận ra. Bà không biết đó là kính trọng hay coi thường. Bà đã chiến đấu trong trận hải chiến lớn nhất là hải quân tham dự kể từ sau Thế chiến II.

Cho đến bây giờ, bà là chỉ huy duy nhất trong một trận đánh chiến thuật trên biển. Ba chỉ huy cấp dưới của bà đã chìm cùng với những con tàu của mình. Trong lúc đợi đến lượt, bà thầm nghĩ không hiểu các thủy thủ của Trân Châu Cảng nghĩ gì, vào những ngày sau thất bại nặng nề đó. Sau này thì họ được tôn vinh, nhưng thực sự các cựu chiến binh cảm thấy thế nào trong những ngày đầu tiên. Họ có phải trải qua Hội đồng thẩm vấn.

Nhân viên thu ngân trả lại phiếu thu cho Hunt. Bà quay về phòng. Đổ các hạt ra bát nhựa. Xếp bánh qui và phó mát ra đĩa. Mở 1 lon bia và đợi.

Không mất nhiều thời gian

Knock, knock, knock … knock … knock … knock … knock, knock, knock …

Không thể tưởng tượng được. Hunt nghĩ và mời vào. Hendrickson mở cửa không khóa, bước qua phòng và vào ngồi đối diện với Hunt qua cái bàn nhỏ ở bếp. Ông thở nặng nhọc như vừa làm gì mệt mỏi lắm, lấy 1 lon bia đang đổ mô hôi lạnh trên bàn rồi bốc một nhúm lạc rang. Họ biết nhau quá rõ để không ai phải nói gì cả.

 “SOS, em có nhớ không?”

Bà gật đầu, rồi thêm “Nhưng đây không phải là Ký túc xá Bancroft. Em cũng không phải là cô hạ sĩ 21 tuổi và anh là chàng trung úy 27 tuổi tìm cách lẻn vào phòng em.”

Ông gật đầu buồn bã.

“Suze thế nào rồi?”

“Vẫn ổn,” ông trả lời

“Còn bọn trẻ?”

“Cũng ổn… sắp có cháu rồi”, ông tươi tỉnh. “Kristine đang có bầu. Thời điểm cũng thích hợp. Nó vừa trực bay xong. Giờ chuyển lên bờ.”

 “Nó vẫn với anh chồng nghệ sĩ ấy à?”

“Thiết kế đồ họa,” Hendrickson chữa lại

“Con bé thông minh,” Hunt nói, nở một nụ cười chịu đựng. Nếu Hunt mà lúc nào đó lấy chồng, người đó cần phải là một nghệ sĩ, một nhà thơ, một ai đó mà tham vọng – hoặc không có tham vọng – không mâu thuẫn với bà. Bà luôn biết điều đó. Và chính vì lý do đó, mấy chục năm trước, bà chia tay với Hendrickson. Họ đều đang tự do. Có điều sự khác biệt về cấp bậc làm họ phải giấu diếm. Hendrickson nghĩ sẽ công khai sau khi Hunt tốt nghiệp. Mặc dù cảm xúc với ông là thật, nhưng bà biết rằng bà sẽ không thể đi theo ông được, ít nhất là không thể theo mà vẫn có sự nghiệp mà mình muốn.

Khi bà nói với ông điều đó vài tuần trước tốt nghiệp, ông đã nói bà là tình yêu của đời mình, điều mà trong suốt 30 năm sau, ông vẫn không bao giờ phủ nhận. Lúc đó bà chỉ trả lời ông bằng sự im lặng, giống như sự im lặng giữa họ bây giờ, làm ông nhớ đến biệt danh của bà “Tường Đá.”

“Em thế nào?”

“Em ổn,” bà nói và chiêu một ngụm bia.

“Hội đồng thẩm tra sắp hoàn thành báo cáo,”

Bà nhìn ra cửa sổ, về phía cảng, nơi bà nhận thấy rất nhiều tàu đã cập cảng trong tuần qua.

“Sarah, anh đã đọc về tất cả những gì đã xảy ra. Họ đáng phải tặng em huân chương chứ không phải là một cuộc điều tra.” Ông đưa tay ra đặt lên tay bà.

Bà vẫn lơ đãng nhìn hàng hàng lớp lớp các khối thép màu xám trên cảng. Bà muốn được ở trên bong của những con tàu đó, chứ không phải bị chôn chân trong căn phòng này, ở cuối sự nghiệp. “Không ai tặng huân chương cho vị chỉ huy đã đánh mất tất cả những chiến hạm của mình.”

“Anh biết.”

Bà nhìn ông. Có vẻ ông không phải là cái bầu phù hợp để chứa những nỗi buồn của bà: hạm đội bị phá hủy, nghỉ hưu vì sứ khỏe, hay là quyết định không lấy chồng, biến Hải quân thành gia đình. Hendrickson có một sự nghiệp thăng tiến như diều, từ các bậc chỉ huy, đến bằng cấp, trường lớp, rồi vị trí ở Nhà Trắng. Mà vẫn vợ con và giờ là cháu đàng hoàng. Hunt không bao giờ có những thứ đó, ít nhất là có với qui mô mà bà từng mơ ước.

Bà chua chát: “Vì thế mà anh đến đây, để bảo với em rằng em xứng đáng được huân chương?”

“Không,” ông rời tay khỏi tay bà và ngồi thẳng lại. Rồi lại nghiêng về phía bà cứ như là sợ làm cho bà cảm thấy khoảng cách giữa hai người là quá xa vậy. “Anh đến đây để nói với em rằng, Hội đồng sẽ kết luận là em đã làm tất cả mọi việc có thể trong hoàn cảnh cụ thể lúc đó.”

“Hoàn cảnh lúc đó là hoàn cảnh nào?”

Hendrickson lại bốc một nắm đầy và bỏ từng hạt lạc vào mồm. “Đó là điều anh hy vong em sẽ nói cho anh.”

Hội đồng thẩm tra không phải là lý do duy nhất mà ông bay đến Yokosuka. Đáng tiếc là Hunt không nhận ra điều rõ ràng như ban ngày đó. Bà chìm đắm trong nỗi buồn, và sự hoang mang của mình để có thể để ý đến bức tranh toàn cảnh.

“Vậy là anh ở đây để thống nhất câu trả lời với em?”

Ông gật đầu.

“Vậy chúng ta sẽ đáp trả thế nào?”

“Anh không thể nói được Sarah. Nhưng em có thể hình dung được.”

Bà ngoảnh ra cửa sổ nhìn bến cảng đầy ắp chiến hạm, từ hàng không mẫu hạm với chi chít máy bay trên bong đến những chiếc tàu ngầm nổi lập lờ trên mặt nước, rồi mấy chiếc khinh hạm nửa chìm nửa nổi và những khu trục hạm truyền thống với mũi tàu hình dao cạo nhô cao chém sóng.

Đó là câu trả lời.

“Anh và sếp anh định gửi những chiến hạm này đi đâu?”

Ông không trả lời, mà tiếp tục nhấn vào các vấn đề kỹ thuật. “Em khai với hội đồng là toàn bộ liên lạc bị cắt đứt. Bọn anh vẫn chưa biết là chúng làm thế nào, nhưng có 1 số giả thiết.” ông lại hỏi bà tiếp về tần số tiếng ồn mà bà nghe được trong máy bộ đàm, hệ thống Aegis bị tắt hay chỉ bị treo. Ông còn hỏi tiếp một loạt các câu hỏi bí ẩn trên mức chi tiết của hội đồng. Bà trả lời tốt nhất có thể, cho đến khi bà không chịu được nữa, khi bà cảm thấy qua các câu hỏi, kế hoạch của Hendrickson và các sếp của ông để chống lại kẻ thù ở Bắc Kinh sẽ thất bại thảm hại.

“Anh không thấy à?”, bà bực tức ngắt lời. “Các chi tiết kỹ thuật của đối thủ không quá quan trọng. Không thể chiến thắng công nghệ bằng nhiều công nghệ hơn. Mà phải bằng cách không dùng công nghệ. Họ bịt mắt con voi lại, rồi ăn thịt nó.”

Ông ngơ ngác “Voi nào?”

“Chúng ta, chúng ta là con voi.”

Hendrickson uống nốt ngụm bia. Ông nói, mấy tuần vừa rồi là khó khăn, và hôm nay là một ngày dài mệt mỏi. Ông sẽ quay lại sáng mai để thăm bà, rồi sẽ bay đi vào buổi chiều. Ông hiểu những điều bà nói, hay ít nhất là muốn hiểu. Nhưng chính quyền đang bị sức ép khủng khiếp phải làm gì đó để chứng minh là mình không bị ép buộc. Mà không chỉ ở trên biển. Còn viên phi công thủy quân lục chiến bị ép hạ cánh nữa. Rồi ông diễn thuyết về cách các toan tính chính trị nội địa ghê tởm dẫn dắt chính sách đối ngoại, trong lúc đứng lên và đi ra cửa. “Vậy sáng mai ta sẽ nói chuyện tiếp?”

Bà không trả lời.

“Được không em?”

“Được”, bà gật đầu rồi đóng cửa lại khi ông bước ra.

Đêm đó bà ngủ mơ màng, trống rỗng, trừ một giấc mơ. Có ông. Và không có Hải quân. Hai người trong một thế giới khác, khi họ có những lựa chọn khác. Bà tỉnh giấc và không thể ngủ ngon được tiếp vì cứ muốn mơ tiếp giấc mơ đó. Sáng hôm sau, những tiếng gõ cửa đánh thức bà. Không phải ông. Không phải tiếng gõ SOS. Chỉ là tiếng gõ bình thường.

Khi bà mở cửa, một thủy thủ đưa bà một bức thư. Bà phải đến điều trần lần cuối chiều nay trước hội đồng. Bà cám ơn anh lính rồi quay lại với căn phòng nửa sáng nửa tối, khi bóng đêm vẫn còn lẩn khuất trong góc.  Bà đến cửa, vén rèm ra, ánh sáng tràn vào làm bà tạm thời lóa mắt.

Bà dụi mắt và nhìn ra cầu cảng. Trống rỗng, các con tàu đã đi đâu hết.

2034, PHẦN IV: PHỤC KÍCH Ở TRƯỜNG SA

12:13 23 tháng Tư, 2034 (GMT+4:30)

ISFAHAN

Qassem Farshad chấp nhận. Hình phạt khắc nghiệt và ngay lập tức. Quyết định kỷ luật chính thức về tội quá tay trong khi hỏi cung phi công Mỹ và lệnh về hưu sớm được chuyển đến tay ông trong vòng một tháng. Ông hỏi, liệu có thể kháng cáo lên ai được không, viên sĩ quan liên lạc chỉ tay vào chỗ chữ ký của đích thân Tướng Mohammad Bagheri, Tổng tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang. Quyết định đến tay khi ông đang bị đình chỉ công tác và về quê, cách 1 tiếng đồng hồ lái xe từ Isfahan. Ở đây bình yên, làm ông nhớ đến căn nhà của Soleimani ở Qanat-e Malek.

Farshad cố gắng quen với mọi việc. Mấy ngày đầu, sáng nào ông cũng đi bộ 5-6km, sau đó sắp xếp lại các ghi chép mà ông đã lưu trữ suốt sự nghiệp. Ông có ý tưởng viết hồi ký, có thể bổ ích cho lớp trẻ. Nhưng ông không tập trung được. Ông thấy ngứa ngáy ở cái cẳng chân bị mất, điều mà trước đây chưa bao giờ xảy ra. Đến trưa, ông dừng viết lách và đến dưới gốc cây du già ở cuối vườn để ăn trưa. Ông ngồi dựa lưng vào gốc cây và nhẩn nha ăn bữa trưa đơn giản: một quả trứng luộc, một miếng bánh mì và vài quả ô-liu. Gần đây ông ăn không ngon, và không bao giờ ăn hết phần. Ông để chỗ thừa cho 2 con sóc sống ở trên cây, mà ngày càng dạn hơn xán đến gần ông để kiếm ăn.

Ông nhớ đi nhớ lại cuộc nói chuyện cuối cùng với vị tướng già, về lời chúc của Soleimani một cái chết của chiến binh. Farshad đã không làm theo. Cơn thịnh nộ của ông ở Bandar Abbas đã làm bố ông và viên tướng già thất vọng. Thật ra, đánh tù binh chưa bao giờ là lý do để sa thải bất cứ một sĩ quan Vệ binh Cộng hòa nào. Ỏ Afganistan, ở Syria, và ở Paelestine, trong suốt đời binh nghiệp mình, ông đã chứng kiến tình báo được xây dựng qua nắm đấm. Ông cũng biết nhiều viên tướng được cất nhắc chỉ vì bạo lực. Nhưng cấp trên của Farshad mong muốn nhiều hơn ở ông. Họ đã nói rõ ràng: ông là cán bộ cấp thấp nhất trong những người họ tưởng. Vậy mà ông đã phản bội lại niềm tin đó. Mặc dù họ có thể nghĩ rằng, chẳng qua là Farshad nhất thời mất kiểm soát chút vì sự cứng đầu của viên phi công Mỹ, thực tế có thể sâu xa hơn thế.

Còn lâu Farshad mới mất kiểm soát.

Ông biết mình đã làm gì. Ông biết chính xác viên phi công Mỹ quan trọng thế nào, mặc dù không nắm hết được các chi tiết. Ông biết là bằng cách đánh đập tay phi công này, ông đã đẩy đất nước mình tới gần chiến tranh hơn với những thế lực đã giết bố ông và viên tướng già. Hy vọng là cả hai sẽ không thất vọng về mình, Farshad nghĩ. Có thể là họ tự hào là ta đã dẫn đất nước tiến gần hơn đền cuộc chiến tất yếu với phương Tây mà các lãnh đạo vô cảm của chúng ta cứ tìm cách lẩn tránh. Ông nghĩ là đã tận dụng cơ hội mà số phận đặt trước mặt. Nhưng có vẻ phản tác dụng và hậu quả là ông mất chức.

Cứ thế ngày này qua ngày khác, cái ngứa ở chân cũng dần dần đỡ đi. Ông sống cô đơn trong căn nhà của gia đình. Đi bộ hàng sáng và ra vườn ăn trưa mỗi ngày. Mỗi ngày cặp sóc sống trên cây lại tiến đến gần hơn, cho đến một ngày, con có lông màu nâu đậm mà ông cho là con đực (ngược với con cái, có cái đuôi màu trắng tuyết), đủ dũng cảm để tiến gần và ăn trong lòng bàn tay ông. Sau bữa trưa, ông vào nhà và lại viết tiếp. Tối đến, ông tự làm bữa ăn đơn giản rồi đọc sách trước khi ngủ. Bản thân sự tồn tại của ông được rút gọn lại như vậy. Sau cuộc đời binh nghiệp, đã chỉ huy hàng trăm, thậm chí hàng ngàn lính, ông bất ngờ hứng thú khi chỉ phải chịu trách nhiệm cho mỗi cá nhân mình.

Không ai đến thăm. Không ai gọi điện. Chỉ có mình ông.

Khoảng vài tuần, một buổi sáng, ông nhận thấy con đường độc đạo qua gần nhà ông bỗng rầm rập xe quân sự, kể cả một số xe rất hiếm khi thấy. Chúng phun khói mù mịt. Qua rặng cây nhà mình, ông thấy đoàn xe bị tắc, thấy các sĩ quan chạy đi chạy lại quát mắng lái xe. Có vẻ như họ đang vội. Cuối buổi sáng hôm đó, khi Farshad đang lười nhác ghi chép thì điện thoại kêu, làm ông ngạc nhiên đánh rơi cả bút.

Xin chào

Có phải là chuẩn tướng Qassem Farshad?

Ai đầu đây đó

Giọng nói tự giới thiệu, mặc dù tên anh ta sau đó sẽ bị quên ngay, rồi thông báo là Bộ tham mưu đã ra lệnh tổng động viên các sĩ quan về hưu và dự bị. Sau đó anh ta đưa địa chỉ văn phòng tập trung. Đó là một tòa nhà ở khu hẻo lánh của Isfahan, rất xa trung tâm quân sự ở Tehran, nơi ông đã quen làm việc.

Farshad ghi lại vào giấy những chi tiết mà ông cần phải báo cáo, rồi bỏ cuốn sổ xuống đống giấy tờ. Ông phải kiềm chế để hỏi là chuyện gì đã xảy ra dẫn đến lệnh động viên. Ông nghĩ là mình biết, hoặc có trực giác mách bảo. Giọng nói hỏi ông cần gì không và chào từ biệt.

Farshad đặt ống nghe xuống. Ông có radio ở trên gác và ông có thể bật lên để biết chuyện gì đang xảy ra. Nhưng ông không muốn làm thế, ít nhất là bây giờ. Đã đến trưa và ông muốn mang đồ ăn ra vườn như thường lệ. Ông biết là nếu ông không đến tập trung thì cũng chẳng sao, không ai có quyền phán xét là ông đã không cống hiến đầy đủ cho Nước Cộng hòa Hồi giáo.

Vài tuần trước, có lẽ ông sẽ thấy dễ dàng hơn nhiều. Xách ba lô lên và bước vào cuộc chiến mới. Nhưng, thật lạ là ông bắt đầu thích cuộc sống yên tĩnh này. Ông thậm chí đã hài lòng nghĩ đến việc định cư lâu dài ở đây.

Khi đến gốc cây, ông thấy đói. Hôm nay ông đã đi bộ gấp đôi ngày thường. Có lẽ lâu lắm rồi ông mới thấy thèm ăn. Ông dựa lưng vào cây và bắt đầu nhâm nhi từng miếng, ngẩng đầu nhìn ánh nắng xuyên qua tán lá cây và rơi lên nụ cười của ông.

Ông vừa ăn xong và đang bắt đầu lim dim thì vợ chồng sóc xuất hiện. Ông có thể cảm thấy một con, chắc là con nâu đang cạo cạo chân mình. Khi ông mở mắt thì thấy con cái, đuôi trắng như tuyết, đang đứng gần đó quan sát. Farshad phủi vụn bánh mì trên áo xuống lòng bàn tay và chìa ra. Chỉ còn có thế. Con sóc nâu nhảy lên cổ tay và thò đầu liếm bàn tay ông. Farshad kinh ngạc. Ông chưa bao giờ nghĩ là có gì đó, nhất lại là con sóc, không sợ ông, tin tưởng ông.

Vì thế, ông không nhận thấy là con sóc không hài lòng với số thức ăn ít ỏ đó. Nó ngước lên nhìn ông, và khi hiểu rằng không còn gì nữa, cắn vào tay ông.

Farshad không nhăn mặt. Ông nắm lấy người con sóc và xiết chặt. Con sóc đang canh chừng, sợ quá chạy mất. Farshad xiết mạnh hơn. Ông không thể dừng lại, ngay cả nếu ông muốn. Phần muốn dừng lại của ông là phần mà muốn ông ở lại đây dưới cây du này. Tuy nhiên, ông xiết mạnh đến mức, máu từ vết cắn, máu của ông bắt đầu rỉ ra. Con sóc nâu vùng vẫy, co giật cho đến khi Farshad cảm thấy mình đang xiết một miếng bọt biển. Ông đứng dậy và vứt con sóc chết vào gốc cây.

Con sóc còn lại chạy đến chỗ bạn nó và nhìn Farshad, người đang quay lại nhìn ngôi nhà và chậm rãi đi vào nhà, đến với tờ giấy có ghi địa chỉ trên đó.

06:37 APRIL 23, 2034 (GMT+8)

BẮC KINH

Chức vụ mới của Lin Bao – Phó tư lệnh các chiến dịch Hải quân của Hội đồng Quân sự Trung ương là một vị trí quan liêu. Mặc dù đang trong tình trạng chiến tranh, điều duy nhất thay đổi là số lượng các cuộc họp mà ông phải tham dự. Ông thường xuyên nhìn thấy Bộ trưởng Chiang, nhưng bộ trưởng không bao giờ nhắc lại vụ chỉ huy Trịnh Hòa nữa. Còn ông thì không dám nêu lên. Trên lý thuyết thì công việc của ông có vẻ quan trọng, nhưng Lin Bao biết còn lâu lắm ông mới được về với biển cả. Từ chiến thắng của Nhóm tàu Chiến đấu Trịnh Hòa với người Mỹ đến giờ, ông có cảm giác hoảng loạn.

Ông không thể chỉ rõ nó là cái gì, một mớ hỗn độn những điều khó chịu, những vớ vẩn đời thường, nhưng có khả năng làm cuộc sống trở nên rất khó chịu. Khi làm tùy viên quân sự ở Mỹ, vị trí của ông là duy nhất và rất quan trọng. Còn bây giờ, khi đất nước đang đối mặt với cuộc khủng hoảng lớn nhất sau nhiều thế hệ, ông ở đây, hàng ngày đến làm việc ở Bộ quốc phòng. Ông không có lái xe riêng. Khi vợ ông lấy xe đưa con đến trường, ông buộc phải đi xe buýt. Ngồi chen chúc ở hàng ghế sau giữa hai sĩ quan thấp bé mà chỉ nói chuyện bóng rổ và cơ hội thăng tiến đã tắt ngủm, ông không thể nào tưởng tượng được vị trí của mình trên cầu tàu chỉ huy Hàng không mẫu hạm của ông.

Suốt 3 tuần, chỉ có Ma Qiang được hưởng vinh quang. Ông ta được tặng thưởng huân chương Mồng Một Tháng Tám, huân chương quân sự cao nhất. Khi Ma Qiang nhận huân chương, Lin hiểu rằng giấc mơ Trịnh Hòa của ông đã xa vời. Nhưng dù có thất vọng đến đâu, ông thấy được bù đắp phần nào khi thấy những sự kiện do mình khởi xướng đã vượt quá tầm kiểm soát của bất cứ ai.

Và Lin tiếp tục các công việc sự vụ của mình. Ông vẫn tiếp tục đi xe buýt và bị kẹt cứng giữa các sĩ quan cấp dưới. Ông không bao giờ nhắc lại tham vọng chỉ huy với Bộ trưởng Chiang và cảm thấy sự vô nghĩa của dòng thời gian đang trôi qua. Cho đến khi nó bị chặn lại bởi một sự kiện không lường trước.

Sự kiện bất ngờ đó là cuộc điện thoại cho Lin Bao từ Bộ chỉ huy Hạm Đội Nam Hải ở Trạm Giang. Sáng hôm đó, máy bay trinh sát không người lái đã phát hiện “Lực lượng đáng kể hải quân Mỹ” đang tiến về phía Nam đến quần đảo Trường sa với tốc độ 20 hải lý/giờ theo hải trình mà họ nói là “bảo đảm tự do hàng hải”. Ngay sau khi nhận tin, Hạm đội mất liên lạc với máy bay. Đích thân tư lệnh hạm đội gọi điện về Hội đồng quân sự Trung ương: liệu ông có nên rủi ro gửi một máy bay nữa.

Trước khi Lin kịp đưa ra phương án gì, Bộ trưởng bước vào, tạo nên xáo trộn nhỏ trong phòng làm việc. Các sĩ quan cấp dưới xun xoe gây sự chú ý, còn Lin đứng sững tay vẫn cầm ống nghe. Ông giải thích tình huống nhưng Bộ trưởng khoát tay. Ông đã biết về chiếc máy bay và những gì mà nó nhìn thấy. Và ông cũng biết câu trả lời của mình, gãi gãi vào ống nghe giờ đã trở thành đồng lõa với Lin trong cuộc nói chuyện một chiều.

“Tôi biết, tôi biết…” Bộ trưởng lẩm bẩm. “Tôi đã nhận được báo cáo.”

Sau đó là câu trả lời khó chịu

“Không, không được gửi bất cứ một máy bay nào nữa.”

Rồi lại một câu khó chịu nữa

“Vì đằng nào các anh sẽ mất nốt máy bay đấy,” Bộ trưởng Chiang trả lời ngắn gọn. “Chúng tôi đang chuẩn bị quân lệnh và các anh sẽ nhận được trong vòng một giờ nữa. Tôi khuyên các anh nên gọi lại tất cả quân nhân đang nghỉ phép trên bờ. Hãy chuẩn bị.” Bộ trưởng Chiang gác máy. Rồi thở dài bực tức. Hai bờ vai chúi về phía trước dáng rất mệt mỏi. Sau đó ông ngẩng đầu lên với một biểu hiện khác hẳn, như đã được tiếp năng lượng cho bất cứ thách thức nào phía trước, ra lệnh cho Lin Bao đi theo mình.

Họ đi nhanh theo hành lang của Bộ, có mấy sĩ quan tùy tùng đi theo. Lin Bao vẫn chưa đoán được nước đi của Bộ trưởng là gì nếu không phái một máy bay trinh sát khác. Họ đến căn phòng họp không cửa sổ nơi họ gặp nhau lần đầu.

Bộ trưởng Chiang chiếm vị trí đầu bàn, ngả người trong chiếc ghế đệm xoay, đan hai tay trên ngực. “Tôi ngờ rằng đó là điều người Mỹ sẽ làm, tuy khó chịu nhưng có thể dự đoán được.” Một sĩ quan tùy tùng chuẩn bị màn hình kết nối, và Lin Bao gần như biết chắc là họ sẽ nói chuyện với ai. “Theo tôi, người Mỹ sẽ gửi hai nhóm tác chiến với Hàng không mẫu hạm Ford và Miller vào Nam Hải. Họ chỉ có 1 mục tiêu, duy nhất một mục tiêu: chứng tỏ là họ vẫn có thể làm được điều đó. Hàng chục năm nay nay họ gửi tàu “bảo đảm tự do hàng hải” vào lãnh hải của ta mặc cho ta phản đối. Họ không chịu chấp nhận chủ quyền của ta ở Đài Bắc Trung hoa và sỉ nhục chúng ta ở Liên hợp quốc bằng cách gọi nó là Đài Loan. Và khi chúng ta nhẫn nhịn chấp nhận những khiêu khích đó, họ, đất nước của Clint Eastwood, Dwayne Johson hay LeBron James ngạo mạn cho rằng chúng ta là một dân tộc yếu đuối nên phải cúi đầu nhịn nhục.”

 “Nhưng sức mạnh của chúng ta luôn ở sự kiên nhẫn khôn ngoan. Người Mỹ không có khả năng kiên nhẫn. Họ thay đổi lãnh đạo và chính sách như lá cây theo mùa. Các cuộc tranh luận vô bổ trong xã hội làm họ không thể ra được một chính sách đối ngoại có ý nghĩa trong vài năm. Họ quản lý bằng cảm xúc, bằng đạo đức ngây thơ và niềm tin vào sự đặc biệt của dân tộc mình. Nươc Mỹ sẽ ở đâu sau hôm nay? Tôi tin rằng, ngàn năm nữa, sẽ không ai nhớ đến Mỹ như một quốc gia. Nước Mỹ sẽ được nhớ đến đơn giản như là một khoảnh khắc phù du của lịch sử.”

Bộ trưởng Chiang đợi, tay đặt lên bàn, nhìn chằm chằm vào màn hình vẫn tối om. Ông rất tập trung, cứ như đợi một hình ảnh nào đó của tương lai. Màn hình bật sáng. Lại là Ma Qiang trên đài chỉ huy, như 6 tuần trước. Duy nhất khác biệt là ngôi sao nằm giữa những dải vàng đỏ của tấm huân chương Mồng Một Tháng Tám lấp lánh phía trên túi áo chiếc quần yếm chống cháy.

“Đô đốc Ma, máy bay trinh sát của Hạm đội Nam Hải bj mất tích khoảng 300 hải lý phía Tây nơi anh đang đứng.” Ma Chiang đứng nghiêm, xiết hàm lại. Rõ ràng là ông ta hiểu sự nghiêm trọng của việc mất tích này. Bộ trưởng tiếp lời: “Hội đồng Quân sự Trung ương ủy quyền cho anh chỉ huy toàn bộ hệ thống vệ tinh.”

Ma Qiang chậm rãi gật đầu, kiểu như để hiểu rõ quy mô to lớn của nhiệm vụ mà ông phải gánh vác. Trong thâm tâm, Lin Bao hiểu, anh ta phải xóa sổ hai nhóm tác chiến hàng không mẫu hạm Mỹ.

“Chúc anh may mắn.”

Ma Qiang gật đầu lần nữa và màn hình lại đen ngòm. Trong phòng có có mấy sĩ quan ra vào, nhưng chỉ có Lin Bao và Bộ trưởng ngồi bên bàn. Bộ trưởng xoa xoa cái cằm nhẵn và lần đầu tiên trong buổi sáng nay, Lin Bao phát hiện ra biểu hiện hơi hoang mang của ông.

“Đừng nhìn tôi như thế,” Bộ trưởng nói.

Lin Bao nhin đi chỗ khác. Có thể vẻ mặt đã phản bội các suy nghĩ của ông khi quan sát người đàn ông ra lệnh cho hàng ngàn người khác vào chỗ chết. Liệu họ có thực sự tin rằng, hải quân của họ dù có năng lực chiến tranh điện tử vượt trội, có thể tiêu diệt được hai nhóm tàu tác chiến HKMH của Mỹ?

Gerld R Ford và Doris Miller có tổng cộng 40 tàu. Khu trục hạm trang bị tên lửa siêu vượt âm. Các tàu ngầm tiến công lặng lẽ. Khinh hạm, tuần dương hạm trang bị tên lửa dẫn đường, máy bay không người lái tấn công và tên lửa siêu vượt âm tầm xa. Mỗi chiếc chứa đầy các công nghệ tiên tiến nhất, do thủy thủ đoàn thiện chiến, kinh nghiệm điều khiển, được hàng đàn vệ tinh hỗ trợ các công nghệ chiến tranh điện tử. Không ai hiểu điều đó hơn Lin Bao, người đã bỏ cả sự nghiệp để nghiên cứu Hải quân Mỹ. Ông cũng hiểu tính cách của người Mỹ, như một dân tộc. Các lãnh đạo nước ông đã ngây thơ khi cho rằng những động tác ngoại giao “đẹp đẽ” có thể hạ nhiệt cuộc xung đột khi một phi công Mỹ bị bắt và 3 tàu chiến bị đánh chìm. Không lẽ Bộ trưởng Chiang tin rằng người Mỹ sẽ nhường Biển Nam Trrung Hoa? Đạo đức của người Mỹ, một cảm giác rất khó nắm bắt, thường xuyên làm đất nước họ lạc lối, đòi hỏi sự đáp trả. Bởi thế việc hai HKMH quay lại hoàn toàn có thể dự đoán được.

Bộ trưởng Chiang yêu cầu Lin Bao ngồi với ông cho đến buổi chiều trong khi các nhân viên ra vào, nhận lệnh và báo cáo. Kế hoạch rõ ràng dần, Trịnh Hòa đang tiến vào vị trí phía Nam quần đảo Trường Sa, triển khai đội hình tác chiến tới tọa độ gần nhất được xác định của Ford và Miller. Hạm đội Mỹ nhiều khả năng sẽ ra được đòn đánh đầu tiên trước khi Trịnh Hòa có thể vô hiệu hóa hệ thống dẫn đường. Sau đó, thì con voi đã bị bịt mắt. Vũ khí thông minh của Mỹ đã không thông minh nữa, thậm chí không phải là ngu. Chúng bị chết não. Lúc đó Trịnh Hòa và ba nhóm tàu mặt nước nữa, sẽ tấn công.

Kế hoạch là thế!

Nhưng đến tận chiều muộn, không thấy tàu Mỹ đâu.

Ma Qiang liên lạc lại, cập nhật vị trí lực lượng của ông, đang dàn đội hình đường đua kéo dài hàng chục hải lí. Trong lúc Ma nói, Lin Bao nhìn đồng hồ một cách nghi ngờ.

“Tại sao anh cứ nhìn đồng hồ vậy?” Bộ trưởng ngắt lời

Lin Bao đỏ mặt lên.

“Anh muốn đi đâu nữa hả?”

“Không, tôi không có kế hoạch nào khác, thưa Bộ trưởng.”

Bộ trưởng gật đầu với Ma, vẫn đang tiếp tục báo cáo, trong khi Lin ngồi phịch xuống ghế bất lực. Xe buýt đã chạy 15 phút trước đó. Giờ thì anh không biết về nhà bằng cách nào.

04:27 APRIL 26, 2034 (GMT+5:30)

NEW DELHI

Điện thoại vang lên: “Anh thức đấy chứ?”

“Vừa tỉnh.”

“Tình hình tệ lắm, Sandy.”

“Cái gì tệ?” Ông hỏi Hendrickson, nuốt nước bọt cho đỡ khô họng, dụi mắt. Các con số trên đồng hồ báo thức hiện lên rõ dần.

“Ford và Miller tèo rồi,”

“Ý ông là gì?”

“Họ thả bom vào chúng ta, hoặc bắn rụng chúng ta, hoặc thế nào tôi cũng chưa biết rõ. Các kênh liên lạc không làm việc. Chúng ta bị bịt mắt. Khi máy bay cất cánh, hệ thống lái bị tê liệt, hệ thống dẫn đường trục trặc rồi bị chiếm quyền. Phi công không thể nhảy dù. Tên lửa không phóng được. Hàng chục máy bay rơi xuống biển. Hàng không mẫu hạm, khinh hạm, khu trục hạm, tàu ngầm hạt nhân và diesel, tàu phóng lôi không người lái, tên lửa tàng hình siêu vượt âm, chế áp điện tử. Chúng tôi đang ghép các sự kiện lại. Tất cả xảy ra đêm qua. Christ ạ, cô ấy đã đúng.”

 “Ai đúng?”

“Sarah, Sarah Hunt. Tôi gặp cô ấy một tuần trước ở Yokosuka.” Chow biết là hội đồng thẩm tra đã kết luận là Hunt không phải chịu trách nhiệm gì trong vụ mất hải đội ở Trận Đá Vành Khăn. Ông cũng biết rằng Hải quân cho rằng thất bại của Hunt là một sự ngẫu nhiên. Như thế dễ dàng hơn nhiều là đào sâu vào các tình huống dẫn đến trận đánh đó. Giờ thì Hải quân khó có thể bỏ qua thảm họa qui mô này. Ba mươi bảy tàu bị đánh chìm. Hàng ngàn thủy thủ mất mạng.

“Chúng ta đánh trả thế nào? Có trúng được phát nào không? Có tàu nào của chúng bị chìm không?”

“Không”

“Không cái nào?”

Đường dây im lặng một lúc. “Tôi nghe nói là Trịnh Hòa bị trúng một phát, nhưng không có tàu nào của chúng bị chìm.”

“Trời ạ, không biết Wisecarver sẽ phản ứng thế nào?”

Ông đã tỉnh hẳn, bật đèn bàn, xỏ chân vào hai ống quần vắt trên ghế. Ông mới đến khu nhà khách thô kệch của Đại sứ quán Mỹ ở Delhi hai ngày trước. Trong khi ông mặc quần áo, Hendrickson giải thích là thông tin vẫn chưa lọt ra ngoài. Sự cố sập mạng cũng cho chính quyền một cơ hội kiểm soát thông tin, ít nhất là cho đến khi người Trung Quốc sử dụng nó chống lại ta. Lạ là họ vẫn chưa làm điều đó.

Hendrickson giải thích là Nhà Trắng đang hoảng loạn. “Lạy chúa, giờ thì cả nước sẽ nói gì?” Tổng thống đã thốt lên như vậy khi nghe tin. Wisecarver đã liên lạc với NORAD (Bộ Chỉ huy Vũ trụ Bắc Mỹ) và nâng cấp báo động lên DEFCON 2, với yêu cầu tổng thống nâng lên DEFCON 1 (khả năng có thể sử dụng vũ khí hạt nhân – NTN). Tại cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng An ninh Quốc gia, ông còn yêu cầu được ủy quyền sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật chống lại nhóm tàu Trịnh Hòa nếu xác định được vị trí của nó. Đáng ngạc nhiên là không ai phản đối cả. Tổng thống, người chỉ mấy ngày trước còn theo xu hướng xuống thang, giờ cũng tán thành cuộc tấn công như vậy.

Hạ nhiệt là lý do mà chính quyền cử Chow đến New Delhi. Các cuộc đàm phán về việc giải cứu Thiếu tá Mitchell đang tiến bộ, chính quyền Iran đã đồng ý đưa viên phi công đến đại sứ quán ở Ấn độ, một cuộc trao đổi tù binh sắp được tiến hành.

04:53 APRIL 26, 2034 (GMT+9)

CĂN CỨ YOKOSUKA

Chiều nay Hunt sẽ bay đi San Diego. Cửa sổ của bà nhìn ra cảng. Bình minh đang lên xóa tan sương mù. Ba con tàu ở chân trời. Một khu trục hạm, một khinh hạm, một tuần dương hạm. Chúng di chuyển rất chậm, gần như đứng yên. Khinh hạm và tuần dương hạm cạnh nhau, khu trục hạm hơi tụt lại sau. Bà có cảm giác không biết chúng có cập được cảng trước khi bà lên máy bay không? Ford và Miller đâu? Có cái gì đó không ổn.

Một pháo hiệu đỏ được bắn lên. Một phát nữa, rồi hai phát nữa. Đèn tín hiệu trên bong khu trục hạm bắt đầu nhấp nháy

Flash, flash, flash … flash … flash … flash … flash, flash, flash …

Ba ngắn… ba dài… ba ngắn

Hunt nhận ra tín hiệu ngay. Bà chạy ra khỏi trại đến Bộ chỉ huy Hạm đội Bảy.

05:23 APRIL 26, 2034 (GMT+8)

BẮC KINH

Chiến thắng toàn diện. Ngoài kỳ vọng! Thậm chí không thể ngồi yên.

Ma Qiang báo cáo đã gặp được nhóm tàu khu trục tiên phong của Ford vào lúc đã quá nửa đêm. Ông đã sử dụng hệ thống tấn công điện tử để vô hiệu hóa chúng, hệt như vài tuần trước trong Trận Đá Vành Khăn. Điều này cho phép hàng chục các tàu phóng lôi tàng hình không người lái tiếp cận với khoảng cách gần hơn một km với các tàu kẻ thù để tấn công. Ba chiếc khu trục hạm bị bắn trực tiếp và chìm nghỉm trong 10 phút. Đó là đón tấn công đầu tiên, trong đêm tối. Khi tin về đến Bộ quốc phòng, mọi người hò reo ầm ĩ.

Các đòn đánh được liên tục đưa ra suốt đêm hôm đó. Bốn chiếc J-15 cất cánh từ Trịnh Hòa đã đánh trúng 15 phát chia đều cho 3 khu trục, 2 tuần dương và một khinh hạm, đánh chìm cả sáu. 6 chiếc trực thăng mang ngư lôi Kamov cất cánh từ 3 khinh hạm Jiangkai lớp 2, phóng 6 quả trúng 4, trong đó có một quả phá hủy bánh lái của Ford. Đây chỉ là đòn đầu tiên trong nhiều đòn tiếp theo nhằm vào hai hàng không mẫu hạm. Tên lửa và máy bay do hạm đội Mỹ phóng ra như rơi vào đêm tối mịt mùng, đen tối hơn khi công nghệ mà họ dựa vào đã phản bội họ. Tác chiến điện tử của Trung quốc đã vượt trội. Trí tuệ nhân tạo đã cho phép Trịnh Hòa lựa chọn chính xác công cụ để thâm nhập vào hệ thống của Mỹ. Năng lực tàng hình cũng quan trọng nhưng chỉ thứ hai. Chính năng lực tác chiến điện tử mới giúp Trịnh Hòa đánh bại hạm đội lớn hơn rất nhiều ở Biển Đông.

Trong suốt 4 giờ đồng hồ, đài chỉ huy Trịnh Hòa liên tục báo cáo về Bộ. Tốc độ tấn công nhanh kinh ngạc. Kinh ngạc hơn nữa là gần như không có thiệt hại. Sau hai tiếng, TQ vẫn chưa mất một tàu hay máy bay nào. Sau đó điều không thể tưởng tượng đã xảy ra, Lin Bao chưa nhìn thấy bao giờ trong đời. Lúc 4:03 phút, một tàu ngầm lớp Yuan chạy diesel áp sát mạn Miller, xua nước vào các ống phóng lôi của nó và khai hỏa ở khoảng cách rất gần.

Sau vụ nổ, chỉ 11 phút sau, con tàu khổng lồ đã chìm. Khi tin đến, thậm chí không ai ở Bộ tỏ ra vui mừng. Chỉ có im lặng. Bộ trưởng, đang ngồi đầu bàn, đứng dậy đi ra cửa. Lin Bao, quan chức cao cấp thứ hai trong phòng, cảm thấy có trách nhiệm phải hỏi là ông định đi đâu, vì trận đánh vẫn đang tiếp tục. Ford vẫn đang ở đó, trọng thương nhưng chiến đấu. Bộ trưởng quay lại, và biểu hiện của ông, ngày thường chỉn chu, để lộ ra cái mệt mỏi đã tích lũy nhiều tuần qua.

 “Tôi ra ngoài thở khí tươi một chút,” ông nói, nhìn đồng hồ. “Mặt trời sắp lên. Ngày mới sắp bắt đầu, và tôi muốn ngắm bình minh.”

05:46 APRIL 26, 2034 (GMT+5:30)

NEW DELHI

Hendrickson treo máy là Chow biết ngay ông phải gọi cho ai, mặc dù ông không muốn. Ông nhanh chóng tính lệch múi giờ. Mặc dù đã muộn, nhưng ông biết mẹ còn thức.

“Sandeep, mẹ đã tưởng không phải nghe thấy con mấy ngày nữa.” Bà nói, có vẻ chán ngán.

“Con biết”, ông nói đuối sức. Ông đuối không phải vì mất ngủ. Thậm chí không phải vì nhận thức được tình trạng khốn khổ của Hạm đội Bảy, mà vì bắt buộc phải xin lỗi mẹ. Ông đã nói là sẽ không gọi trong chuyến đi này. Nhưng khi ông cần, bà vẫn có mặt, như lúc này đây. “Có vấn đề trong công việc mẹ ạ, ” ông dừng lại để bà có thời gian tưởng tưởng xem “vấn đề công việc” của con trai là gì trong hoàn cảnh này. “Mẹ có thể nối con với bác anh mẹ được không?”

Đường dây im lặng, ông biết thế.

Có lý do để Chow không gọi Phó Đô đốc về hưu Anand Patel là “Bác con” mà là “Anh mẹ”. Vì Anand chưa bao giờ là bác với Chow, và cũng không phải là anh cho cô em Lakshmi. Nguồn cơn của sự xa cách này là Lakshmi đã bỏ đám cưới được sắp đặt của mình và viên sĩ quan hải quân trẻ, bạn của anh mình, để chạy theo tình yêu, là bố của Chow: một sinh viên y khoa đang có kế hoạch đi học tại Đại học Columbia, để lại danh dự gia đình bị hủy hoại, ít nhất là theo quan điểm của ông anh. Nhưng đó là chuyện thời xưa. Xưa đến nỗi, đã hơn 20 năm kể từ khi chú rể hụt, chàng sĩ quan hải quân bị chết trong một tai nạn máy bay. Xưa đến nỗi, đã 10 năm kể từ khi bố của Chow, một bác sĩ ung thư lại chết vì căn bệnh ung thư. Trong lúc đó, anh của Lakshmi, bác của Sandy thăng tiến lên đến chức Đô đốc, chức vụ rất ít khi được nhắc đến trong nhà Chow, nhưng giờ đây ông muốn tận dụng để làm nội ứng trong việc thả Thiếu tá Mitchell.

Kế hoạch là thế nếu mẹ ông giúp. “Mẹ không hiểu Sandeep, chính phủ ta có đủ các quan hệ ở Ấn Độ. Sao không giải quyết những việc như thế này qua kênh chính thức.”

Chow giải thích cho mẹ, đúng là những việc này thường được giải quyết qua kênh chính thức. Đúng là chính phủ có rất nhiều kênh liên lạc, chưa kể có rất nhiều nguồn tình báo mà Chow khác mà ông không muốn nhắc đến. Mặc dù thế, đôi khi mấu chốt để gỡ những cái nút Gordian (truyền thuyết Hy lạp, ngụ ý những vấn đề rất khó tháo gỡ – NTN) trong ngoại giao lại là quan hệ cá nhân, gia đình.

“Người đàn ông này không phải là gia đình mẹ nữa.” Bà lạnh lùng.

“Mẹ, mẹ biết tại sao người ta lại chọn con Sandeep Chowdhury để đến đây không? Vô khối người có thể làm được. Họ chọn là vì gia đình ta gốc ở đây.”

“Không biết bố anh sẽ nói gì. Anh là người Mỹ. Họ gửi anh vì anh là người giỏi nhất, không phải vì bố mẹ anh.”

“Mẹ, con cần mẹ giúp.”

“Được rồi, lấy bút đi”

Bà đọc cho ông số điện thoại mà bà đã nhớ thuộc lòng.

09:13 APRIL 26, 2034 (GMT+5:30)

NEW DELHI

Những vết sưng trên mặt anh đã xẹp đáng kể. Xương sườn cũng đỡ hơn nhiều. Khi Wedge thở sâu đã không đau nữa. Có một số vết sẹo, nhưng không sao. Anh tưởng tượng các cô gái sẽ bám lấy từng lời của anh trong các quán bar cạnh Căn cứ không quân Miramar khi anh được về nhà. Mấy hôm trước, anh được thay quần áo mới, thêm thịt vào khẩu phần ăn và đưa lên máy bay của chính phủ, có tiếp viên, nước hoa quả tươi và hạt điều. Tất nhiên là anh không bay một mình. Các mật vụ mặc thường phục dắt súng trong thắt lưng và đeo kính phản quang theo dõi anh. Khi Wedge tung mấy cái hạt điều lên và để rơi vào mồm mình, họ cười phá lên, mặc dù anh không hiểu là họ cười anh hay vui với anh.

Máy bay hạ cánh trong đêm, có lẽ là cố tình. Sau đó anh được đưa đi trong một cái xe có cửa sổ bị bịt kín. Không ai nói gì với anh cho đến tận đêm hôm đó, khi anh chuẩn bị đi ngủ trong một căn phòng trải thảm, sang trọng hơn tất cả những nơi anh đã bị ở mấy tuần rồi. Không ai nói với anh là họ đưa anh đi đâu, nhưng cho biết là tuần sau sẽ có đại diện Chữ thập đỏ đến thăm.

Nghĩ đến chuyện đó, anh khó có thể ngủ ngon được. Hình ảnh nữ y tá xinh đẹp, áo trắng, tất trắng, đội mũ chữ thập đỏ như trong các chuyến viếng thăm binh lính thời trước, cứ quay đi quay lại trong đầu anh, mặc dù anh biết nhân viên chữ thập đỏ bây giờ không phải như vậy nữa. Căn phòng trống không mặc dù chắc bên ngoài có người gác. Sự trống vắng đó càng giúp tăng trí tưởng tượng của anh về buổi tiếp xúc đầu tiên với thế giới bên ngoài sau hai tháng. Anh như nhìn thấy đôi môi của cô y tá cam đoan: em sẽ đưa anh về nhà.

Sáng hôm sau khi cửa mở, và một người đàn ông Ấn độ xuất hiện, khỏi phải nó là anh đã thất vọng thế nào.

09:02 APRIL 27, 2034 (GMT+4:30)

ISFAHAN

Tại trung tâm hành chính của Quân đoàn 2, không ai biết rằng điều gì đã xảy ra ở Biển Nam Trung Hoa. Bộ Tổng tham mưu các Lực lượng vũ trang đã ra lệnh tổng động viên. Đất nước chuẩn bị chiến tranh, hay ít nhất là trên bờ vực chiến tranh mà không ai biết là tại sao. Khi ra khỏi nhà, Farshad định mặc quân phục, nhưng nghĩ rồi lại thôi. Ông không còn là chuẩn tướng Vệ binh Cộng hòa nữa, nói gì đến lực lượng Quds tinh nhuệ. Bây giờ ông là thường dân. Dù sự thay đổi, hay chính xác là cắt đứt mới diễn ra được mấy tuần. Liệu vết cắt đó có nối lại được không, Farshad sẽ biết ngay thôi. Ông đứng đợi trong hàng dài đến tận tầng 3 của tòa nhà phụ. Có lẽ ông là người già nhất trong hàng, hơn hàng chục tuổi. Ông cảm thấy mọi người liếc nhìn ông già với những vết sẹo và bàn tay phải chỉ có 3 ngón.

Sau khoảng một tiếng, có người dẫn ông qua cầu thang lên tầng 4. “Đợi ở đây,” viên hạ sĩ nói cứ như là sếp ông, bước vào phòng rồi quay ra ngay vẫy Farshad vào.

Đó là một văn phòng rộng. Đằng sau cái bàn gỗ sồi rộng là hai lá cờ bắt chéo. Cờ Cộng hòa Hồi giáo và Cờ quân đội. Một viên sĩ quan hành chính, hàm đại tá, đưa tay ra đón Farshad. Tay anh ta mềm, quân phục là thẳng cứng, ánh lên kim loại. Đại tá mời viên tướng già, anh hùng Cao nguyên Golan, huân chương Fath, ngồi xuống uống trà. Viên hạ sĩ đặt 2 cái cốc, một cái trước mặt Farshad, một cái trước mặt đại tá.

“Rất hân hạnh được tiếp ông ở đây,” đại tá hớp trà và nói.

 Farshad nhún vai. Mục tiêu chuyến thăm của ông không phải là nói chuyện khúm núm. Không muốn tỏ ra mất lịch sự, ông lẩm bẩm: “Anh có văn phòng đẹp.”

“Tôi tin là ông sẽ có văn phòng đẹp hơn,”

“Tôi là tướng đánh trận, tôi còn không nhớ là mình có lúc nào có văn phòng”. Farshad lắc đầu, uống hết chén trà rồi đặt mạnh nó lên khay, như muốn vào thẳng việc chính, bỏ qua mấy màn chào hỏi cho phải phép.

Viên đại tá rút từ ngăn kéo ra một cái phong bì và đưa cho ông. “Teheran mới gửi đến đêm qua. Tôi được yêu cầu đưa trực tiếp cho ông.”  Farshad mở phong bì, bên trong chỉ có một tài liệu in trên giấy dày, xen lẫn các chữ viết tay, dấu và chữ ký.

“Đây là quyết định thiếu tá hải quân?”

“Tôi được chỉ thị truyền đạt cho ông là Thiếu tướng Bagheri, Tổng tham mưu trưởng đích thân yêu cầu ông chấp nhận bổ nhiệm này.”

“Tôi đã từng là chuẩn tướng,” Farshad nói, để lá thư lên bàn

Đại tá không trả lời.

“Tại sao chúng ta lại tổng động viên?” Farshad hỏi.

“Tôi không biết, cũng như ông, không ai giải thích đầy đủ, giờ tôi chỉ thực hiện theo lệnh thôi.” Sau đó ông lấy 1 cái phong bì nữa và đưa cho Farshad. Trong đó có vé máy bay đến Damas và chuyển tiếp đến căn cứ hải quân của Nga ở Tartus của Syria, nơi ông sẽ nhận nhiệm vụ. Ông tỏ ra hoang mang ra mặt. Ông không biết nhiệm vụ này là nghiêm túc hay được nghĩ ra để hạ nhục ông. Viên đại tá lải nhải giải thích về việc rất khó về mặt thủ tục để tái bổ nhiệm một sĩ quan bị khiển trách về chức vụ cũ trong cùng nhánh quân đội cũ. “Tôi vô tình được biết, các chức vụ cao cấp trong lực lượng Vệ binh Cộng hòa đều đã có chủ. Cộng hòa Hồi giáo cần sự phục vụ của ông. Và đây là vị trí duy nhất cho ông.” Viên đại tá thò tay vào ngăn bàn một lần nữa và lấy ra đôi cầu vai hám thiếu tá hải quân, đặt giữa ông ta và Farshad.

Farshad khinh khỉnh nhìn lên phù hiệu, như vậy ông bị hạ xuống ba cấp. Sao lại thế được? Nếu ông muốn chiến đấu trong cuộc chiến sắp tới, liệu ông có phải hạ mình như vậy, không được thực hiện ngay cả một nhiệm vụ ở tiền tuyến, mà phải làm việc lặt vặt nào đó trong quan hệ với người Nga. Và làm thủy thủ. Ông còn không thích tàu bè. Bố ông và Soleimani chưa bao giờ phải mất danh dự như vậy. Farshad đứng dậy, và nhìn thẳng vào đại tá, cằm xiết lại, tay thành nắm đấm. Ông không biết phải làm gì, nhưng ông biết bố mình và Soleimani muốn ông phải làm gì.

Ông nhờ viên đại tá đưa bút để ký chấp nhận lệnh điều động. Sau đó thu lệnh và vé đi Tartus rồi quay mặt đi. “Thiếu tá, ông quên gì không?” viên đại tá nói và đưa đôi cầu vai. Farshad cầm lấy rồi đi ra cửa.

 “Ông còn quên điều gì nữa không, thiếu tá?” Farshad quay mặt lại ngơ ngác.

Rồi ông hiểu ra. Ông cố gắng kiềm chế cơn giận đang sôi lên trong lòng, thôi thúc ông bạo lực. Thằng ngu trong bộ quân phục láng cóng, trong văn phòng rộng rãi mà chắc nó chưa dám bỏ đi bao giờ. Thằng ngu chỉ làm việc ngớ ngẩn này sang việc ngớ ngẩn khác, trong lúc cố tỏ vẻ mình là người lính, biết thế nào đánh nhau, giết chóc. Farshad muốn đấm vào mặt hắn, vặn cổ hắn đến khi môi hắn tím lại và đầu hắn lủng lẳng dưới cổ.

Nhưng ông không làm. Ông giấu giấc mơ đó đi để dành cho lúc khác. Thiếu tá hải quân Qassem Farshad đứng nghiêm, giơ bàn tay 3 ngón chào viên đại tá bàn giấy.

2034, PHẦN V: BƠI VÀO ĐÊM ĐEN

07:26 MAY 06, 2034 (GMT+8)

ĐÔNG NAM TRƯỜNG SA

Lin Bao nhìn thấy ánh sáng sớm trên biển. Ông đã không ra biển từ lâu lắm rồi. Cũng đã lâu rồi ông không chỉ huy.

Nhưng chưa lâu lắm từ chiến thắng vĩ đại trên vùng biển này, từ khi chính phủ công bố đã đánh chìm 37 tàu chiến của Mỹ gồm cả hai hàng không mẫu hạm Ford và Miller, làm cả thế giới ngỡ ngàng: cán cân quân sự trên đại dương đã thay đổi.

Cũng chưa lâu lắm từ khi ông nhận được lệnh từ đích thân Bộ trưởng Chiang, chỉ huy Nhóm tàu chiến đấu Trịnh Hòa. Ông mới chia tay vợ con ở Bắc kinh ba ngày trước đây để đến Bộ chỉ huy Hạm đội Nam Hải ở Trạm Giang nhận nhiệm vụ.

Lin Bao nghĩ về Ma Qiang khi bay ra tàu. Hai phi công trẻ của chiếc máy bay cánh quạt hai động cơ mời ông ngồi vào chiếc ghế thứ ba trong buồng lái. Họ vui vẻ và tự hào được nhận trách nhiệm đưa vị tư lệnh mới từ Trạm Giang ra tàu, luôn miệng bảo đảm với ông là sẽ bay êm và hạ cánh chuẩn… “là điềm tốt cho chỉ huy mới đấy ạ.” Một anh vừa nói vừa cười toe toét.

Ngắm nhìn đại dương từ trên buồng lái, Lin Bao trầm tư không biết Ma Qiang nằm đâu dưới đáy biển. Ước muốn cuối cùng của bạn ông là được hòa vào biển cả. Lin Bao biết, điều đó là một phần của huyền thoại mà Ma tìm cách xây dựng quanh mình, đến tận khi hy sinh đúng vào thời điểm chiến thắng vĩ đại nhất. Cũng như anh hùng hải quân Đô đốc Nelson Horation ở Trafalgar, Ma Qiang đã đưa tàu của mình đến quá gần vùng chiến sự một cách bất cẩn, kích động hiểm nguy tô điểm cho vinh quang của mình. Một chiếc máy bay Mỹ kiểu cũ F/A-18 –Ong Vò Vẽ, lọt qua được lưới phòng không của Trịnh Hòa, và phi công, theo một cách rất không-đặc thù-Mỹ, đã đâm cả máy bay vào vào buồng chỉ huy của Trịnh Hòa, như các phi công Thần Phong của Nhật.

Đã có thể nhìn thấy Trịnh Hòa ở đường chân trời, bé như một con tem. Khi máy bay lấy góc tiếp cận, Lin cảm thấy cũng không khác gì chiếc Ong Vò Vẽ trong những phút cuối cùng. Ông nhớ lại phản ứng của Bộ trưởng khi nghe tin Đô đốc Ma và một số thủy thủ và sĩ quan hy sinh trong cuộc tấn công kamikaze của phi công Mỹ. “Đó là một phi công rất dũng cảm”, Bộ trưởng khen viên phi công Mỹ mà không nhắc gì đến Ma Qiang. Có vẻ là tính cách háo vinh danh của Ma làm ông khó chịu hơn là cái chết của anh ta. Mặc dù ngầm phê phán việc mạo hiểm không cần thiết của Ma, Bộ trưởng vẫn cùng Thường trực Bộ chính trị công khai ca ngợi và vinh danh Ma Qiang, người hùng của Chiến thắng Biển Đông giờ đã thành huyền thoại.

Thay thế người hùng không dễ, Lin nghĩ, trong khi máy bay bắt đầu hạ cánh xuống bong. Ông có thể nghe thấy cuộc đối thoại với kiểm soát không lưu khi máy bay lượn vòng. Hai cáp giữ số 1 và số 4 đã bị hỏng khi đánh nhau, và bây giờ, hơn một tuần sau vẫn chưa được xử lý. Lin Bao có thể hình dung những việc ông phải làm để chuẩn bị cho những trận đánh ác liệt phía trước.

Máy bay rung lắc mạnh do nhiễu động. Khi hạ xuống độ 300m, Lin thấy sàn tàu có đông người, hay ít nhất là đông hơn bình thường. Có lẽ thủy thủ muốn ra xem chỉ huy mới hạ cánh. Máy bay tiếp bong hơi xa, phi công phải tăng ga nâng độ cao để có thể hạ cánh lần thứ hai.

Phi công hạ cánh trượt quay mặt lại và bẽn lẽn xin lỗi Lin Bao: “nhiễu mạnh quá, đồng chí Đô đốc thứ lỗi. Chúng tôi sẽ đưa đồng chí hạ lần này.”

Lin Bao báo phi công không phải lắng, nhưng trong thâm tâm ông đã ghi cú hạ cánh trượt này vào danh sách những việc quan tâm của ông khi nhận chức trách chỉ huy. Máy bay lấy lại độ cao. Có lẽ phi công nhận thấy vẻ không hài lòng của Lin, nên cứ lảm nhảm trong khi chuẩn bị hạ cánh lần 2. “Tôi đã nói trước rồi mà thưa đồng chí, hạ cánh lần đầu mang lại điềm may, nhưng tôi không tin lắm.”

Một cú nhiễu động nữa.

“Tôi nhớ khi Đô đốc Mia nhận chức, trời cũng rất gió. Phải đến lần thứ ba ông ấy mới hạ cánh được.” Viên phi công vui vẻ thêm vào.

13:03 APRIL 28, 2034 (GMT+5:30)

NEW DELHI

Nếu không có quyết định của chính phủ Trung Quốc đợi hai bốn giờ mới tung tin chiến thắng ở Biển Đông ra, Chow sẽ không có cơ hội để đưa Wedge ra khỏi sứ quán Iran. Ngay từ những ngày đầu của cuộc khủng hoảng, Chow đã thấy việc bắt giữ Wedge là mắt xích yếu nhất trong chuỗi các hành động chính xác của đối phương, tính từ cuộc gọi của viên tùy viên quân sự ăn M&M về Wen Rui.

Giải cứu Mitchell là một việc làm khá mạo hiểm. Wedge đã rất thất vọng khi thấy một nhân viên ngoại giao đứng đắn chứ không phải một nữ y tá xinh đẹp của Chữ Thập Đỏ. Tuy nhiên nỗi thất vọng nhanh chóng biến mất khi Chow giải thích chính phủ Ấn vừa thuyết phục được Iran chuyển Wedge sang cho họ quản lý sáng nay. “Nhanh chân lên!” Chow giục và họ được hai sĩ quan tình báo Ấn Độ vội vã đưa ra qua cửa sau.

Sau này khi Wedge hỏi Chow làm thế nào mà ông bác ông có thể thuyết phục được viên đại sứ chuyển anh cho Ấn Độ giam giữ, rõ ràng là gây bất lợi cho chính phủ Iran, Chow đã trả lời bằng tiếng Nga: Kompromat (thông tin có thể làm hạ thấp uy tín, phá hoại sự nghiệp của một chính trị gia – NTN)

“Kompromat?” Wedge hỏi lại

 “Trẻ em,” Chow trả lời, giải thích là cơ quan tình báo Ấn Độ thường có những công cụ để tác động lên các nhân viên nước ngoài, đặc biệt là cỡ đại sứ. Ông đại sứ này lại là một kẻ ấu dâm đồng tính. Khi ông bác Chow đến hé lộ thông tin cho đại sứ, ông này đã tính toán đơn giản: ông ta sẽ bị kỷ luật nhẹ hơn nếu bị chính phủ Ấn Độ lừa, hơn là công khai các khuynh hướng tình dục của mình. “Đấy là lý do vì sao anh được thả, Thiếu tá Mitchell.”

Chow để Wedge lại bệnh viện với một nhân viên sứ quán, người sẽ phải lo để anh bay về Mỹ hoặc về bất cứ đâu mà Thủy quân lục chiến thấy hợp. Chow phải quay về Washington, về với các trách nhiệm của mình, về với con gái. Khi quay về căn nhà ở khu phụ của sứ quán để thu dọn đồ đạc ra sân bay, anh vội đến mức bước qua mà không nhận ra ông bác mình đang kiên nhẫn ngồi đợi trên sofa.

 “Sandeep, bác nói vài lời được không?” Chow giật mình khi nghe thấy giọng trầm của bác ngay phía sau. “Xin lỗi đã làm cháu bất ngờ.”

“Làm sao bác vào được đây?”

Viên đô đốc già đảo mắt, có vẻ như ngạc nhiên tại sao ông cháu lại hỏi câu ngây ngô vậy. Trong một buổi sáng ông đã sử dụng các mối quan hệ của mình trong giới tình báo, quân sự và ngoại giao để lấy được viên phi công Mỹ từ bên Iran, không có lẽ gì ông không xử lý được cái khóa của phòng thằng cháu. Tuy nhiên ông vẫn trả lời: “một nhân viên sứ quán của cháu đã cho bác vào,” rồi như cảm thấy thế là chưa đủ, ông nói thêm, “một người mà trước đây bọn bác cũng giúp đỡ chút ít.”

Chow đồng ý nói chuyện với bác. Hai người đi ra ngoài ngồi vào chiếc Mercedes đen. Chow cũng chẳng hỏi là đi đâu và bác cũng không nói. Trên xe họ không nói gì. Chow cũng không phản đối. Mấy ngày nay ông nằm bẹp ở sứ quán, đây là lần đầu tiên ông được ngắm phố. Những con phố bụi bặm cũ kỹ đã bị phá hủy. Những hàng cây xiêu vẹo nở hoa tưng bừng cũng đã biến mất. “Đám đông bồng bột và bất tiện dễ bị kích động phản kháng” như bác ông đã có lần nói như thế, cũng không còn nữa.

Phố sạch sẽ. Những ngôi nhà mới và đẹp.

Những thay đổi to lớn trong bộ mặt đô thị Ấn Độ xảy ra hai thập kỷ trước, dưới thời của tổng thống Modi, người cùng với các đồng minh dân tộc chủ nghĩa của mình, đã quyết tâm lột xác Ấn Độ cũ bằng cách đầu tư vào hạ tầng, cuối cùng đã khuất phục được Pakistan bằng Cuộc chiến Mười Ngày năm 2024, và dùng thắng lợi đó để hiện đại hóa quân đội.

Chow có thể soi lại lịch sử bằng cách nhìn qua cửa sổ, ngắm những con phố sạch bong, chen chúc những dãy nhà cao tầng bọc kính, những toán lính và thủy thủ tha thẩn đi dạo trên phố, sau giờ trực ở nhiệm sở. Modi và các trợ thủ của mình đã tiêu diệt tất cả những ai chống đối các cải cách, muốn che dấu một xã hội đã đổ nát. Tất nhiên chưa phải mọi thứ đều đã hoàn hảo. Nông thôn còn nhiều việc phải làm. Nhưng con đường phía trước rõ ràng là tươi sáng hơn hẳn.

Cuối cùng họ cũng đến được chỗ cần đến. Không phải là một bước tiến, mà là một bước lùi về thời gian: Delhi Gymkhana, câu lạc bộ của ông bác. Một con đường dài, thẳng giữa thảm cỏ được cắt cẩn thận, dẫn đến sảnh có mái che. Từ xa Chow có thể nhìn thấy sân cỏ tennis và bể bơi nước xanh biếc. Người phục vụ cúi đầu chào và trao đổi gì đó với bác, họ được dẫn vào hiên nhà, nhìn ra khu vườn cầu kỳ mang dấu ấn Anh Quốc thuộc địa từ thời thành lập câu lạc bộ.

Patel gọi gin tonic còn Chow gọi soda, làm cho ông bác hơi thất vọng. Khi người bồi chạy đi, Patel hỏi: “Cô em bác thế nào?”

“Mẹ cháu ổn, rất vui được làm bà nội”. Bỗng Chow dừng lại, anh cảm thấy mình không có quyền thông tin về mẹ mình cho ông bác xa lạ. Cái chết của bố anh đã ảnh hưởng sâu sắc đến mẹ. Có lẽ cuộc nói chuyện đã chỉ dừng ở đây nếu không có sự ồn ào trong câu lạc bộ, cạnh chiếc TV trên quầy bar. Những vị khách quen trịnh trọng mặc đồ tenis trắng, những người hầu khoác jacket, mấy chàng ca sĩ, tất cả xúm lại nghe tin tức. Những người dẫn chương trình đang tổng hợp những tin tức đầu tiên về trận đánh lớn ở Biển Nam Trung hoa. Họ chỉnh lại tai nghe, mắt nhìn chằm chằm vào camera khi các tin tức tuôn ra từ đầu dây, dần dần hình thành một kết luận khủng khiếp: Hải quân Mỹ đã bị đánh bại hoàn toàn.

Chỉ có Chow và bác ông không thấy cần thiết phải xúm vào TV. Họ ngồi lại trên hiên vắng.

“Phải có thời gian, người ta mới hiểu được tất cả những thứ đó nghĩa là gì!” Patel nói hất hàm về phía TV.

“Đơn giản là chúng cháu đang có chiến tranh.”

Patel gật đầu nhấp một hụm gintonic. “Đúng rồi, nhưng đây mới là khởi đầu thất bại của các anh. Đó mới là điều đáng nói.”

“Chúng cháu có thể đã hơi đánh giá thấp họ. Nhưng Hải quân Mỹ mạnh mẽ và có phần vượt trội. Chúng cháu sẽ không sai lầm nữa và họ sẽ phải hối tiếc.” Chow dừng lại và đổi giọng. “Tôi sợ là chúng ta đã đán thức người khổng lồ đang ngủ và tiêm cho anh ta một sức mạnh khủng khiếp.”

Bác ông biết câu nói đó. “Đô đốc Isoroku Yamamoto. Nhưng đây không phải là Trân Châu Cảng và tình hình đã thay đổi. Anh nhìn quanh xem, nhìn câu lạc bộ này. Khi một đế chế qua thời đỉnh cao, nó sẽ sụp đổ. Câu lạc bộ này, với tất cả nét Anh xưa cũ, là tượng đài của sự vượt ngưỡng.”

Chow nhắc cho ông bác rằng, đất nước ông còn lâu mới đến ngưỡng. Mới có thất bại đầu tiên, cứ cho là hai đi, nếu tính cả vụ “phục kích hải đội” của John Paul Jones và các tàu đi cùng. “Chưa kể, chúng tôi còn chưa bàn đến việc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật và chiến lược.”, Chow thêm một chút chất giọng nghiêm trọng.

Viên đô đốc già khoanh tay trước ngực. “Anh thử nghe xem. Vũ khí hạt nhân chiến thuật và chiến lược. Anh có nghe các anh nói gì không? Với những vũ khí này, không ai có thể thắng.”

Chow nhìn ra ngoài, rồi lẩm bẩm, như cậu thanh niên tức tối: “Hiroshima… Nagasaki… Chúng tôi đã thắng.”

“Chúng tôi? Ai là chúng tôi?” giọng của bác trở nên khó chịu. “Gia đình anh đã sống cách đây chỉ có 3 dặm những ngày đó. Anh nghĩ là tại sao nước Mỹ lại thịnh vượng sau Thế chiến Hai?”

“Vì chúng tôi thắng.” Chow nói

Patel lắc đầu. “Người Anh cũng thắng, người Nga thắng, ngay cả người Pháp cũng thắng.”

“Cháu không hiểu bác muốn nói gì?”

 “Trong chiến tranh, không phải là thắng. Mà là thắng thế nào. Người Mỹ thường không bắt đầu mà chỉ kết thúc cuộc chiến. Còn bây giờ.” Patel gục cằm xuống, và lắc đầu buồn bã. “bây giờ ngược lại, các anh khởi đầu cuộc chiến mà không biết cách kết thúc nó.”

Rồi ông đổi chủ đề và hỏi về em mình. Chow cho ông xem ảnh con gái, chia sẻ một chút về cuộc ly dị của ông, về ác cảm của mẹ ông với con dâu như bản sao của Ellen Degeneres, mặc dù Patel không hiểu. Sau khi lắng nghe, ông hỏi: “Liệu cháu có tính đến chuyện về nhà không?”

“Nước Mỹ là nhà của cháu,” Chow trả lời. “Không nơi đâu trên thế giới, con của một người nhập cư có thể leo lên được vị trí trong Nhà Trắng. Nước Mỹ rất đặc biệt. Đó là điều cháu muốn nói với bác.”

Pate ngồi nghe ông một cách nghiêm túc. “Cháu có biết là bác thích nhất điều gì khi tham gia câu lạc bộ này không?”

Chow ngơ ngác nhìn

“Lại đây,” Patel nói rồi đẩy lùi ghế, duỗi thẳng chân trên sàn lát đá hoa của hiên nhà. Họ bước vào căn phòng ngay phía trong, trông như phòng truyền thống, sát tường là những tủ kính bày những chiếc cúp có đôi quai cầm, có khắc năm, đã từ nhiều thế kỷ trước. Patel đưa Chow đến một bức ảnh được đóng khung ở góc nhà. Các sĩ quan quân đội Anh đứng thành ba hàng, với những người giúp việc đội khăn đứng bên cạnh. Bức ảnh đề thời gian gần 100 năm trước, trước khi Ấn Độ dành độc lập. Patel giải thích đây là bức ảnh chụp các sĩ quan Anh của Trung đoàn bộ binh Ấn độ số 2, là các thành viên của câu lạc bộ này, ngay trước khi họ được cử đến chiến trường Thái Bình Dương. “Đa số họ bị giết ở Miến Điện hoặc Mã Lai.” Những gương mặt từ tấm ảnh nhuốm màu thời gian nhìn Chow ám ảnh. Ông bác rút cây bút bạc từ trong túi rồi khoanh tròn một khuôn mặt, với bộ râu được tỉa tót, người đậm, đeo lon, mắt nhìn thẳng vào camera. “Đây là ông ấy, cháu thấy tên không? Lance Naik Imran Sandeep Patel… cụ của cháu đấy.”

Chow đứng lặng trước bức ảnh.

“Không chỉ có Nước Mỹ mới làm người ta đổi đời. Nước Mỹ không đặc biệt như vậy.” bác nói.

Chow lấy điện thoại và chụp lại khuôn mặt của ông tổ.

“Bác nghĩ là chính phủ bác sẽ phản ứng thế nào?” ông nói, ra hiệu về phía chiếc TV đang đưa tin nóng về một cuộc chiến nhiều khả năng là sắp xảy ra.

“Khó nói, nhưng bác nghĩ là chúng ta sẽ thoát ra ổn thỏa.”

“Vì sao bác nghĩ như vậy?”

“Vì chúng ta học được những bài học mà các anh đã quên mất.”

11:42 MAY 13, 2034 (GMT+9)

YOKOSUKA NAVAL BASE

Đầu tiên chuyến bay về nhà của bà bị hủy

Sau đó là lệnh mới: kiểm tra y tế tại Bệnh viện Hải quân

Lần này bà qua được.

Bà được thăng chức sớm lên chuẩn đô đốc một sao. Nhiệm vụ mới làm bà sốc. Bà được giao chỉ huy Nhóm chiến đấu gồm Hàng không mẫu hạm Enterprise và 20 tàu khác. Tất cả thủ tục hết một tuần. Tuần sau bà sẽ gặp hạm đội ở Yokosuka. Đêm trước khi Enterprise cập bến, bà lần đầu tiên gặp cơn ác mộng mà sau này sẽ đeo đuổi bà.

Trong ác mộng đó, ba đứng nhìn 3 tàu còn lại từ Nhóm chiến đấu của Ford và Miller bò về cảng. Bà đứng ở trên cảng, khi một trong ba con tàu, chiếc khu trục hạm, thả cầu tàu. Nhưng chiếc khu trục hạm này không phải thuộc nhóm của Ford và Miller. Nó là soái hạm cũ của bà, John Paul Jones. Thủy thủ đoàn xuống tàu và bà nhận ra rất nhiều người lính trẻ. Trong đó có thuyền trưởng Jane Morris. Cô ấy hút xì-gà, vẫn điếu xì-gà họ đã chia sẻ với nhau trên đài chỉ huy của John Paul Jones mấy tuần trước. Tưởng như cả đời người đã trôi qua. Khi Hunt đến gần, Morris vẫn bình thản bước qua, như là bà không tồn tại. Không phải là Morris phản ứng gì, mà có vẻ như Hunt mới là bóng ma còn Morris và các thủy thủ mới là những người đang sống.

Trong lúc Hunt đang tìm cách gây chú ý của Morris, bà nhìn thấy một viên hạ sĩ quan đang đi xuống cầu tàu lên bến. Anh ta gây chú ý vì mặc toàn đồ trắng. Quần rộng loe phủ lên đôi giầy da được đánh bóng. Hai lon khâu vào tay áo. Chiếc mũ hải quân trắng vui nhộn lệch trên đầu anh. Có lẽ anh chưa đến 25 tuổi. Và mặc dù là hạ sĩ quan, anh ta đeo vô khối huân huy chương trên người, bao gồm cả huân chương đã giết chết mình. Anh là lính đặc nhiệm SEAL. Anh bước lên bến, đến thẳng chỗ Hunt và cầm tay bà xiết chặt 3 lần: TÔI/YÊU/BÀ – hệt như bố bà vẫn thường làm. Anh nhìn vào mắt bà, cầm tay, chờ đợi. Khuôn mặt cạo nhẵn nhụi, cơ thể thon hình chữ V, mạnh mẽ. Bàn tay anh ấm. Suýt nữa bà không nhận ra ông. Trong trí nhớ của bà, ông luôn già hơn, từng trải. Bà không bao giờ nhớ những tấm huân chương lấp lánh của bố mình. Nhưng bây giờ chúng đang đặc biệt lấp lánh. Đôi mắt xanh của ông nhìn thẳng vào bà. Và bà xiết chặt tay ông 4 lần: CON/CŨNG/YÊU/BỐ.

Ông nhìn bà và nói: “Con không phải làm như vậy.” rồi thả tay bà, bước đi. Bà gọi với theo, “Làm gì ạ?” nhưng ông không quay lại

Giấc mơ luôn kết thúc ở đây. Hunt vừa ra khỏi giấc mơ khu Enterprise được kéo vào cảng. Bà vẫn còn đang bị câu hỏi trong giấc mơ ám ảnh khi gặp với thủy thủ đoàn trên bến cảng. Bà bắt gặp mình đang tìm kiếm ông, hoặc Morris, liệu có đi cùng với các thủy thủ đang xuống tàu kia. Thủy thủ đoàn còn trẻ. Đa số các sĩ quan hoặc vị trí chính thức đều trẻ hơn quy định 1,2 bậc. Đó là kết quả của những tổn thất gần đây trong chiến đấu, cũng như vấn đề thiết hụt nhân lực trầm trọng trước đó. Hunt hài lòng với việc họ trẻ, hy vọng là họ khao khát và sự nhiệt tình sẽ bổ khuyết cho kinh nghiệm.

Theo kế hoạch Enterprise sẽ ở lại cảng một tuần sau khi di chuyển từ Hạm đội Năm ở Vịnh Arab. Đồng đội của nó, chiếc Bush vừa ngu ngốc mất một phi công trên bầu trời Iran, và Enterprise quyết không mắc phải sai lầm đó trong khi thực thi nhiệm vụ mới. Nhưng là nhiệm vụ gì thì họ cũng không rõ. Họ biết năng lực tác chiến điện tử của Hải quân Trung quốc có thể làm cho các hệ thống liên lạc, vũ khí, điều khiển hiện đại của họ, chỉ còn là những chiếc máy tính ngớ ngẩn, mà họ chưa biết cách chống lại. Tuy nhiên họ biết rằng bất cứ nhiệm vụ cụ thể nào của họ, cũng phải bao gồm tiêu diệt hoặc vô hiệu hóa hạm đội Trung quốc đang đe dọa phá vỡ cán cân quyền lực trong khu vực.

Đầu tiên, tất nhiên, họ phải đi tìm được hạm đội Trung Quốc, đặc biệt là Nhóm tác chiến Trịnh Hòa. Kinh nghiệm từ vụ Wen Rui và thảm họa của Ford và Miller đã chứng tỏ khả năng Trung quốc có thể che dấu cả một vùng biển rộng lớn. Khi Bộ chỉ huy Hạm đội Bảy hủy lệnh về hưu của Hunt, họ cũng đã gửi các máy bay trinh sát không người lái đi khắp Biển Nam Trung Hoa và các góc của Thái Bình Dương để xác định vị trí và đoán định các bước tiếp theo của hạm đội Trung Quốc. Đủ loại máy bay từ phiên bản tàng hình mới nhất của MQ-4C Triton, đến RQ-4 Global Hawks hay RQ-170 Sentinels của CIA, tất cả đều kết nối chăt chẽ với hệ thống vệ tinh của Mỹ. Nhưng cũng như trường hợp chiếc F-35 ở Bandar Abbas, cứ đến một khoảng cách nào đó, người Trung Quốc lại có thể vô hiệu hóa toàn bộ các thiết bị trên maý bay. Kết quả là Bộ chỉ huy đã để lại cho Hunt một lỗ đen to tướng với bán kính gần 800 hải lý. Bao gồm vùng biển Nhật Bản, Việt Nam, Đài Loan và Philippines. Trịnh Hòa và hạm đội Trung Quốc nằm ở đâu đó trong lỗ đen này và Hunt được kỳ vọng là sẽ tìm ra và tiêu diệt.

Bà đã yêu cầu vô hiệu hóa tất cả các thiết bị điều khiển trên một trong những phi đội của mình VMFA-323 có tên là Death Rattles (Rắn đuôi kêu chết chóc), phi đội duy nhất của Thủy quân lục chiến trên bong của Enterprise còn sử dụng FA-18 Hornet cổ lỗ. Bà có 2 ngày để điều chỉnh lại các máy bay trên cảng. Thực tế là Hunt đang biến một trong các phi đội của bà thành “Phi đội Ngu”.

Chỉ huy phi đội ra sức phản đối. Anh này bảo với Hunt là không chắc chắn là tất cả các phi công của anh biết cách bay chay bằng mắt và tay mà không có sự trợ giúp của các thiết bị. Bà bỏ qua, không phải vì bà thấy anh này vô lý, mà bà không có lựa chọn nào khác. Bà biết rằng, lần sau, nếu phải đánh nhau, bà sẽ đánh mù.

Tất nhiên là nếu bà có thể tìm ra Trịnh Hòa.

09:00 MAY 21, 2034 (GMT-4)

QUANTICO

Wedge chỉ muốn về nhà. Về San Diego. Về với bãi biển. Về với tập gym lúc 6h sáng. Họp trước bay lúc 8h00. 9h00 tập phiên đầu Ăn trưa. 13h30 bay lượt 2, sau đó là họp rút kinh nghiệm. Uống bia ở câu lạc bộ sĩ quan và ngủ đêm trên giường không phải của mình. Anh muốn đeo kính Ray-Ban, lướt sóng ở Punta Miramar. Anh muốn chém gió với đồng đội cùng phi đội, và chứng minh rằng đó không phải là chém gió trong các bài tập cận chiến ở Căn cứ Không quân Fallon.

Anh không muốn làm gì?

Anh không muốn về Quantico. Anh không muốn viên thượng sĩ mà Bộ chỉ huy phân “hộ tống trong vùng WDCMA” cứ lẽo đẽo theo sau.

“WDCMA là cái quái gì vậy?” Wedge hỏi viên thương sĩ ù lì, chẳng có công trạng gì ngoài mấy cái giấy khen luyện tập và phiếu “bé ngoan”.

“Washington DC, Metro Area, thưa ngài!” (Vùng nội thành thủ đô Washington)

“Anh chơi tôi à?”

“Tuyệt nhiên không, thưa ngài.”

Trong suốt mấy tuần anh quay về Mỹ, hay là CONUS theo cách mà thượng sĩ bắt anh phải gọi như vậy, anh và anh ta đã trao đổi kiểu này với anh ta mấy lần rồi. Khi anh ta từ chối cho anh ăn tối với anh bạn thời sinh viên gần Quảng trường Dupont. (“Anh chơi tôi à?” “Tuyệt nhiên không, thưa ngài.”), hay khi thượng sĩ kiên quyết đòi đi cùng khi anh muốn đi xem phim ở rạp của căn cứ (“Anh chơi tôi à?” “Tuyệt nhiên không, thưa ngài.”), hay gần đây, có lẽ đau nhất, khi anh cứ bị gia hạn ở lại Quantico, đầu tiên là 1 ngày, sau đó là 2 ngày, sau đó là 1 tuần, rồi tuần nữa ((“Đm, anh chơi tôi à?” “Tuyệt nhiên không, thưa ngài.”)

Lý do chính, trên giấy tờ, để họ bắt anh ở lại là giải trình. Suốt tuần đầu tiên, anh phải lần lượt gặp đủ loại sĩ quan từ CIA, DIA, NSA, Bộ ngoại giao, và thậm chí cơ quan Tình báo Trắc địa. Anh đã giải thích chi tiết cho họ, những trục trặc mà anh gặp phải với chiếc 35, những hành động mà anh đã xử lý theo quy trình, và kể cả không theo quy trình như nã đạn vào bảng điều khiển. “Khi hệ thống đơ, tôi tắt chúng đi.” Các sĩ quan bàn giấy và nhà thầu công nghiệp có vẻ không tin lắm. Rồi anh kể lại bị bắt thế nào, ít nhất là những gì mà anh nhớ được.

 “Kể cho chúng tôi nghe về tay sĩ quan Iran đi.”

“Tay này có bàn tay phải chỉ có 3 ngón, tính tình nỏng nảy, và đấm đá tôi thối phổi. Các anh muốn biết gì nữa không?”

Mấy tay bàn giấy cắm cúi ghi chép vào sổ.

Wedge thấy chán ngán. Đó là vấn đề. Anh ngồi không suốt ngày, xem tin tức. “Ba mươi bảy con tàu,” anh thường nói to lên như vậy, như từ hư vô. Mỗi lần nói như vậy, anh hy vọng là ai đó, có thể là tay thượng sĩ cứng nhắc, sẽ chạy đến an ủi và nói với anh là không có gì xảy ra cả. Ford, Miller và các tàu hộ tống vẫn còn nguyên. Tất cả chỉ là giấc mơ ảo ảnh. Chỉ có sự vĩ đại của nước Mỹ là thật.

Wedge quen rất nhiều những phi công giờ đã chết từ khi học ở trường bay Pensacola chục năm trước. “Chúng ta bị bẻ nanh.” Wedge chua chát nghĩ về trận đánh, liếm lưỡi vào những chỗ răng anh bị đánh gẫy. Trong tuần thứ hai ở Quantico, anh bỏ 4 tiếng đồng hồ ra tiệm răng, và chính nha sĩ báo cho anh lý do chính thức mà anh bị giữ lại căn cứ. Sau khi thay 5 cái răng, nữ nha sĩ lấy gương cho Wedge soi. “Anh nghĩ nghế nào? Liệu đã đủ đẹp trai để họ đưa anh đến Nhà Trắng chưa?”

Một tuần nữa trôi qua.

Như vậy là anh đợi đến báo cáo ở Nhà Trắng. Viên thượng sĩ kể cho Wedge anh đã nổi tiếng thế nào khi bị bắt. Cho anh xem phong trào #FreeWedge trên mạng xã hội. Tổng thống, suy cho cùng là một nhà chính trị, nên chẳng có gì lạ là muốn chụp ảnh cùng với Wedge. Bà ấy cần phải làm thế. Nhưng cuộc gặp cứ bị hoãn lại. Mặc cho Wedge ngồi chờ xem TV. Hạm đội Trung quốc biến mất. Mất tăm. Bộ trưởng quốc phòng, Tham mưu trưởng, Cố vấn an ninh quốc gia, con diều hây non Trent Wisecarver – ra sức họp báo, đe dọa đáp trả đích đáng “Sự xâm lăng của Trung Quốc.”

Người Tàu vẫn quan sát và im lặng.

Sau vài tuần ầm ĩ, có vẻ chính quyền cũng cảm thấy mệt. Ngày đầu tiên không có họp báo, cuối cùng Wedge cũng được triệu tập đến Nhà Trắng. Trên suốt chặng đường từ Quantico, anh lo sửa đi sửa lại bộ quân phục màu xanh mới được may đo vội vã. Nghe nói là Tổng thống sẽ gắn huân chương cho anh. Rồi hỏi dăm ba câu, chụp ảnh và xong. Vừa sửa sang mấy dải băng trên ngực, Wedge vừa lùa lưỡi kiểm tra hàm răng mới.

“Ngài trông bảnh lắm,” thượng sĩ nhận xét. Wedge cám ơn và cả hai nhìn ra cửa sổ.

Khi họ đến cổng vào Cánh Tây, có vẻ như không ai chào đón cả. Mật vụ không tìm thấy tên Wedge trong danh sách ra vào ngày hôm nay. Wedge rủ tay thượng sĩ đi làm cốc bia ở Old Ebbit Grill hay Hay-Adams gần đó rồi rồi tí quay lại nhưng thượng sĩ từ chối. Anh ta tranh cãi với sĩ quan mật vụ, làm cuối cùng họ phải gọi sếp. Mất đến nửa tiếng để họ gọi sang Lầu Năm góc và Bộ chỉ huy Thủy quân lục chiến.

Chow tình cờ đi ngang qua. Ông biết về chuyến viếng thăm của Wedge và tình nguyện hộ tống anh. Còn thượng sĩ thì phải đợi vì Chow chỉ được dẫn một người một lần. Ông dẫn Wedge qua các văn phòng chi chít ở Cánh Tây và giải thích một cách hối lỗi: “từ khi bị mất điện, không một hệ thống nào làm việc trở lại bình thường cả.” Sau đó ông tìm được chỗ để Wedge ngồi đợi. “Tôi biết là có lịch của anh ngày hôm nay, nhưng tình hình hiện tại khá bất định. Để tôi đi kiểm tra xem lúc nào mời anh vào.” Sau đó Chow biến mất vào sự rối rắm như tổ ong. Wedge có thể quan sát thấy điều đó. Các nhân viên vội vàng chạy về một hướng, rồi đột ngột dừng lại, và quay đầu chạy ngược. Các cuộc nói chuyện có vẻ rất căng thẳng, nhưng lại thì thầm. Điện thoại reo liên tục. Đàn ông thì chưa cạo râu. Đàn bà thì không chải tóc. Ăn uống ngay tại bàn làm việc

 “Vậy đó chính là anh?”, một nhân viên, kẹp một cặp tài liệu đỏ dưới nách, cặp kính không gọng ngự trên mũi, xuất hiện ngay cạnh, ngắm nghía Wedge như thể anh là một bức tranh có xuất xứ đáng ngờ.

Theo bản năng, Wedge đứng dậy, chào và tự giới thiệu: “Vâng, tôi là Thiếu tá Chris Mitchell, thưa ngài,” cứ như anh đang ở trong cuộc diễu binh ở Quantico. Trent Wisecarver tự giới thiệu không phải bằng tên mà bằng chức vụ, “Tôi là cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống,” rồi bắt tay Wedge một cách hờ hững, như thể ông không thể tập trung đủ sự quan tâm cho một cái bắt tay thân thiện hơn. “Thiếu tá Mitchell,” ông chỉ tay vào cái cặp dưới nách, “anh có lịch, nhưng tổng thống đang quá bận rộn chuẩn bị cho bài phát biểu toàn quốc vào tối nay. Nên bà đã ủy quyền cho tôi trao phần thưởng cho anh.” Wise đưa chiếc cặp đỏ và cái hộp xanh chứa huân chương cho Wedge. Ông ta ngưng một chút, có vẻ như để tìm từ phù hợp, “Xin chúc mừng,” rồi lại vội vã chạy đi họp tiếp.

Wedge tự lần mò trong Cánh Tây để đi ra cổng. Tay thượng sĩ vẫn nghiêm túc đứng chờ. Chẳng ai nói với ai câu nào, họ bước ra Đường Pennsylvania vào một gara công cộng nơi họ để chiếc xe công vụ. Thượng sĩ cũng không hỏi chi tiết cuộc gặp với Tổng thống của Wedge. Có vẻ như anh ta cảm thấy việc trao huân chương diễn ra cũng không trang trọng lắm, nên cố gắng mua vui cho Wedge bằng cách nhắc là có thể ngày mai anh ta sẽ hết nhiệm vụ và Wedge có thể tự do gia nhập lại phi đội của mình.

Wedge mỉm cười, cả hai im lặng lắng nghe những điệu nhạc xưa trên radio khi lái về Quantico. Bỗng nhạc tắt phụt, phát thanh viên thông báo, tổng thống sẽ có bài phát biểu với toàn quốc.

Thượng sĩ vặn to radio. Wedge nhìn qua cửa sổ vào đêm đen.

“Hỡi các công dân Mỹ, vài giờ trước, tình báo của chúng ta đã phát hiện một hạm đội lớn của Trung Quốc ở sát bờ biển Đài Loan, một đồng minh của Hoa Kỳ. Trong bối cảnh những xung đột gần đây với Bắc Kinh, đây là sự đe dọa thực tế không những chỉ với sự độc lập của quốc đảo mà của cả chúng ta. Những thất bại quân sự gần đây đang làm hạn chế đôi chút khả năng ứng phó của chúng ta với mối đe dọa này. Nhưng hãy tin là chúng ta vẫn có đủ năng lực. Tôi xin trích lời tổng thống thứ 35 JF Kennedy,’tất cả các dân tộc, dù họ có yêu quí chúng ta hay ko, cần phải biết rằng, chúng ta sẽ trả mọi giá, chấp nhận mọi đau khổ, vượt qua mọi hiểm nguy, để ủng hộ bất cứ người bạn nào, chống lại bất cứ kẻ thù nào, nhằm bảo vệ tự do cho nhân loại.’ Lời cam kết đó được đưa ra vào những ngày khó khăn nhất của chính quyền Kennedy, trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cu Ba và vẫn còn nguyên giá trị hôm nay.”

 “Tôi muốn nói trực tiếp với các công dân và chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung hoa. Hệ thống tác chiến điện tử của các người làm hạn chế khả năng đáp trả thông thường có chừng mực. Chúng tôi không chọn con đường chiến tranh, nhưng khi bị dồn ép, chúng tôi sẽ đáp trả. Chúng tôi sẽ giữ các cam kết với đồng minh của mình. Hãy đưa các tàu chiến của các người về cảng, hãy tôn trọng quyền tự do hàng hải. Chúng ta vẫn có thể tránh được thảm họa. Nhưng xâm phạm chủ quyền của Đài Loan là làn ranh đỏ cuối cùng với Hoa Kỳ. Các người sẽ hứng chịu những hậu quả thảm khốc. Để sát cánh cùng với các đồng minh, tôi đã ra lệnh ủy quyền sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật cho các chỉ huy trong khu vực.”

Wedge tắt đài. Cao tốc I-95 vẫn nhộn nhịp. Chỗ này chỗ kia, xe này vượt lên, xe kia lùi xuống, chiếu đèn pha vào bóng đêm. Wedge có thể nhìn thấy bóng lái xe và hành khách trong xe, chăm chú nghe radio. Wedge không cần phải nghe gì cả. Anh hiểu điều gì sắp xảy ra.

Thượng sĩ lẩm bẩm, “Lạy chúa, vũ khí hạt nhận,” rồi nói tiếp “Tôi hy vọng là Nhà Trắng đã tính toán kỹ.”

Wedge gật đầu. Họ tiếp tục đi trong im lặng.

Wedge nhìn xuống đầu gối, nơi anh vẫn giữ chiếc cặp đỏ có bằng chứng nhận và hộp xanh chứa huân chương.

“Hay xem huân chương của ngài tí đi,” thượng sĩ nói.

Wedge mở hộp. Bên trong rỗng không.

Cả anh và thượng sĩ đều không biết nói gì. Thượng sĩ ngồi thẳng trên ghế lái. Tay đặt vào vị trí 10h và 2h trên vô lăng. “Không sao,” anh ta lẩm bẩm, liếc qua một lần nữa cái hộp không trên gối Wedge. “Hôm nay Nhà Trắng có lẽ đã có tí bối rối. Mai chúng ta sẽ xử lý.”

2034, PHẦN VI: LÀN RANH ĐỎ

01:46 MAY 22, 2034 (GMT+2)

BIỂN BARENTS

Ba đêm liên tiếp, Farshad không ngủ được. Buồng của ông nằm ngay trên ngấn nước và ông nghe rõ tiếng băng trôi gõ vào thành tàu như tiếng chuông – dong, dong, dong. Cả đêm, không ngừng nghỉ. Khi đến Tartus mấy tuần trước, ông được giao nhiệm vụ mới. Ông không được làm đại diện liên lạc với Hạm đội Biển Đen, áo ngắn tay rám nắng, mà bị điều lên Hạm đội Baltic lạnh giá. Khi bước ra khỏi máy bay ở Kalinigrad, ông còn không có áo khoác ấm cho mùa đông. Dù sao thì ông cũng nghĩ là sẽ được phân vào biên chế của tàu chỉ huy Kuznetsov, hay có thể là tuần dương hạm Pyotr Veliky. Vậy mà cuối cùng lại bị điều về tàu hộ tống Rezkiy, không ngừng lắc lư. Ông thấy mình cũng hơi bị say sóng trên cái hộp sắt với thành mỏng dính này.

Dong, dong, dong –

Chán nản, ông ngồi dậy, bật đèn.

Giường của ông là giường xếp kê đầu vào thành cabin. Mà cabin nhỏ đến mức ông không thể mở cửa nếu không gập giường lên. Và giường lại không thể gập lên nếu không thu dọn hết chăn gối. Quy trình nhiều bước: dọn giường, dựng lên, mở cửa bước ra ngoài, là một trong những “nghi lễ” hàng ngày mà ông phải tuân thủ với tư cách một sĩ quan đại diện cấp thấp. Một nghi lễ khác là ăn tại phòng ăn đông nghịt, với các sĩ quan đa phần là không nói tiếng gì khác ngoài tiếng Nga và trẻ hơn ông rất nhiều. Bởi thế giữa các bữa ăn ông cũng ăn, hoặc ăn những thức ăn trong ngày còn, do nhân viên đặt ngoài phòng lúc nửa đêm.

Ông khoác áo choàng lông, được phát ở Kaliningrad, bên ngoài áo ngủ. Rồi đi xuống cầu thang đỏ đèn dẫn đến phòng ăn, trong tiếng băng gõ dinh dong vào mạn tàu, xem có kiếm được cái gì ăn không.

Cũng như cabin của Farshad, phòng ăn là tiêu chuẩn của việc tiết kiệm không gian. Thực ra nó chỉ là những cái ghế băng dài bằng 2 cái bàn, gắn với cái tủ bếp. Thiếu tá Vasily Kolchak, một sĩ quan chỉ huy của Rezkiy đang ngồi trên ghế, nhâm nhi một cốc trà rót từ ấm samovar. Anh đang đọc gì đó từ laptop, điếu thuốc lá trễ trên ngón tay. Đằng sau anh là vật trang trí duy nhất trong phòng, một cái bể cá có con cá vàng cam đang trố mắt nhìn từ mảnh vỡ tàu dưới đáy bể. Những người phục vụ đã chuẩn bị 2 xoong inox thức ăn đêm. Một chứa thịt đậm màu với nước sốt nâu, chiếc kia chứa thịt nhạt hơn với nước sốt trắng. Bên mỗi xoong có biển chữ, nhưng Farshad không nói được tiếng Nga.

“Trắng là cá, hình như cá trích, còn đậm hơn là thịt lợn.” Kolchak nói bằng tiếng Anh.

Farshad dừng lại một chút, ngắm nghía hai phương án. Rồi ông đến ngồi với Kolchak mà không lấy gì.

 “Ông chọn tốt đấy,” Kolchak nói trong tiếng máy lọc nước nhè nhẹ của bể cá ở trong góc. Anh ta đeo một chiếc nhẫn có khắc chữ trên ngón út bàn tay phải. Tay trái vò lên mái tóc vàng gần như bạc trắng rủ xuống tận tai một cách lo lắng. Đôi mắt nhỏ, lạnh lùng và sắc sảo, hơi phai màu xanh, như viên đá quí đã được mài từ nhiều thế hệ trước. Mũi dài, thẳng và đỏ lựng ở đầu chóp. Có vẻ như Kolchak đang chống chọi với cái lạnh.

“Tôi không nghĩ là ông đã xem bản tin,” Kolchak nói tiếng Anh kiểu cổ, cứ như Farshad đang nghe trộm các cuộc hội thoại từ thế kỷ trước. Rồi anh ta bật video. Cả hai lắng nghe bài phát biểu của tổng thống Mỹ vài giờ trước đó. Khi video hết, không ai nói gì. Cuối cùng Kolchak hỏi tại sao Farshad mất mấy ngón tay.

“Đánh Mỹ,” Farshad giải thích rồi chỉ tay vào cái nhẫn của Kolchak nhìn gần thấy có khắc con đại bàng hai đầu, “Còn cái nhẫn này là gì?”

“Của cụ tôi đấy. Cũng là sĩ quan Hải quân của Sa hoàng.” Kolchak hit một hơi thuốc dài. “Ông ấy đánh nhau với Nhật. Sau đó người bolshevik giết ông ấy. Gia đình đã giấu kín cái nhẫn trong nhiều năm. Tôi là người đầu tiên đeo nó công khai. Thời thế đã thay đổi.”

“Anh nghĩ người Mỹ sẽ làm gì?” Farshad hỏi

“Tôi phải hỏi ông chứ, các ông đã đánh nhau với họ.”

Farshad ngạc nhiên về sự tôn trọng tế nhị này. Đã lâu không ai xin ý kiến gì của ông cả. Bất đắc dĩ, ông cảm thấy có cảm tình với Kolchak, người sĩ quan này là một đứa con trung thành của dân tộc, mà không phải lúc nào cũng đối xử công bằng với anh ta và gia đình, giống ông. Farshad trả lời Kolchak bằng nhận xét là các tổng thống Mỹ có quan điểm rất khác nhau về cái gọi là “Lằn ranh đỏ.” Ông đang nghĩ liệu Mỹ có thực sự sẽ dùng vũ khí hạt nhân để ngăn cản Trung quốc chiếm Đài Loan. “Người Mỹ trước đây khá minh bạch và dễ đoán. Giờ thì không phải như vậy nữa? Sự khó lường của người Mỹ làm cho họ trở nên rất nguy hiểm. Nga sẽ làm gì nếu Mỹ hành động. Các anh sẽ có nhiều cái để mất đấy. Tôi thấy những người Nga giàu có khắp nơi.”

 “Người Nga giàu có ư, không có khái niệm đó đâu?”

Farshad không hiểu. Ông nhắc đến những du thuyền lộng lẫy ở Địa Trung hải, những biệt thự xa hoa ở bờ biển Amalfi và Dalmatian (bờ biển nước Ý – NTN). Đi bấy cứ đâu khi Farshad nhìn thấy những thứ đẹp đẽ, biệt thự, du thuyền, máy bay riêng đậu trước cổng, những người phụ nữ nặng trĩu thời trang, và hỏi chủ nhân là ai, câu trả lời luôn là: người Nga.

Kolchak lắc đầu, dụi thuốc lá vào cái gạt tàn. “Không không, không có người Nga giàu có. Chỉ có người Nga nghèo, nhưng có tiền.”

Châm một điếu thuốc nữa, Kolchak bắt đầu tâm sự về Tổ quốc, về “Nước Mẹ Nga”, đã trải qua bao đời, từ Sa hoàng, Đế quốc đến Cộng sản, chưa bao giờ được các cường quốc khác tôn trọng. “Trong thời đế quốc Nga, hoàng gia chúng tôi nói tiếng Pháp khi họp chính sự, dưới thời cộng sản, nền kinh tế chúng tôi là cái vỏ rỗng. Bây giờ, dưới chế độ liên bang, họ coi lãnh đạo chúng tôi là tội phạm. Ở New York, London, họ không coi trọng bất cứ ai trong chúng tôi, kể cả tổng thống Putin. Với họ, Putin không phải là nhà lập quốc liên bang, mà chỉ là một người Nga nghèo, cùng lắm là côn đồ hung hăng, mặc dù ông đã lấy lại Crum, Georgia và Ukraine của tổ tiên chúng tôi, mặc dù ông đã đập vỡ hệ thống chính trị Mỹ, để bây giờ tổng thống của họ phải mang danh ‘độc lập’ không thuộc đảng phái nào hết. Chúng tôi là một dân tộc hèn mọn. Lãnh đạo của chúng tôi vì thế cũng hèn mọn. Ông hỏi người Nga sẽ làm gì khi Mỹ hành động? Không rõ ràng sao? Cáo sẽ làm gì trong chuồng gà?” Kolchak cười, không mím môi lại nữa.

Farshad luôn hiểu rằng, hoặc ít nhất cảm nhận được trong đầu là nước ông và nước Nga có nhiều lợi ích chung. Nhưng nói chuyện với Kolchak, ông cảm thấy sâu sắc hơn sự gắn bó của con đường mà hai dân tộc cùng trải qua. Cả hai đều có lịch sử đế quốc cổ kính: Sa Hoàng và Vua Ba Tư. Cả hai đều trải qua cuộc cách mạng triệt để: Bolsheviks và Hồi giáo. Cả hai đều bị phương Tây dồn ép: cấm vận, chỉ trích. Trực giác mách bảo ông, giờ là cơ hội cho những người đồng minh Nga.

Họ rời cảng nhà Kaliningrad 3 tuần trước. Trong tuần đầu tiên, Rezkiy theo dõi được rất nhiều tàu của Hạm đội Ba và Hạm đội Sáu Hải quân Mỹ trong vùng biển tây Đại Tây dương và phía bắc Ban tích. Rồi bỗng nhiên, chúng biến mất. Sau tin về thảm họa ở Biển Nam Trung Hoa được tung ra, có thể đoán được chúng chuyển hướng đến đâu. Cơ hội chho người Nga cũng khá hiển nhiên. Hơn 500 đường cáp quang, chiếm 90% dung lượng Internet tốc độ cao của Bắc Mỹ nằm dưới mặt nước băng giá này.

 “Nếu người Mỹ ném bom nguyên tử, tôi không nghĩ là thế giới sẽ quan tâm đến ai cắt đứt mấy sợi dây cáp đó.” Kolchak chăm chú nhìn Farshad. “Chắc cũng không ai quan tâm nếu chúng tôi chiếm một dải đất của Ba Lan để đưa Kaliningrad về với đất mẹ Nga.” Kolchak lấy tay vẽ lên bản đồ, một hành lang cho phép nước Nga nối với một cảng Baltic của minh.” Putin trước đây cũng hay nói về dải đất này. “Nếu người Mỹ cho nổ vũ khí hạt nhân, họ sẽ trở thành một quốc gia thấp hèn, mà họ hay dùng để miêu tả chúng tôi.”

“Anh có nghĩ là họ sẽ thực sự làm vậy không?”

”10 hoặc 15 năm trước, câu trả lời của tôi là chắc chắn không. Giờ thì tôi cũng không chắc lắm. Nước Mỹ hiện tại không phải là nước Mỹ mà người Mỹ tin là như thế. Thời gian thay đổi tất cả đúng không? Và bây giờ thế giới đang thay đổi theo hướng có lợi cho chúng tôi.” Kolchak nhìn đồng hồ, gập máy tính và nhìn Farshad: “Muộn rồi, ông cần phải ngủ đi.”

 “Tôi không ngủ được,”

“Sao thế?”

Farshad im lặng, để Kolchak có thể nghe tiếng băng đập vào mạn tàu dong, dong, dong. “Tôi sợ âm thanh này, tàu thì lắc quá.”

Kolchak đưa tay nắm lấy tay Farshad một cách ấm áp. “Ông phải đừng để nó quấy rầy mình. Quay về phòng và nằm xuống. Ông sẽ quen với sự lắc lư. Còn âm thanh ấy à? Tôi luôn tưởng tượng nó là một cái gì đó khác.”

“Là cái gì?”

“Là tiếng chuông, báo hiệu thời thế đã thay đổi.”

23:47 MAY 22, 2034 (GMT+8)

BIỂN ĐÔNG

Ai đó gõ cửa lúc nửa đêm.

Lin Bao ngồi dậy, thở dài chán nản. Gì nữa chứ? Gần đây ông bị đánh thức thường xuyên. Đêm qua, thuyền thưởng hai tàu khu trục cãi nhau vì sắp xếp đội hình, ông phải can thiệp. Đêm trước nữa, dự báo một cơn bão lớn, may mà không xảy ra. Rồi một tàu ngầm bỗng nhiên mất một phiên liên lạc. Trước đó là nước cứng bốc hơi trong một những lò phản ứng. Danh sách nối dài trong bộ não thiếu ngủ của ông. Lin Bao đang đứng trước một thời khắc trọng đại trong lịch sử dân tộc. Nhưng ông không cảm thấy điều đó. Ông phải giải quyết vô khối những việc vụn vặt và tin rằng có lẽ chẳng thể nào ngủ được một giấc trọn vẹn.

Tuy nhiên ông cũng có một chút hài lòng khi tổ hợp các công nghệ vẫn giúp hạm đội của ông giấu được mình. Mặc dù người Mỹ có thể đoán được ông đang tiến về phía Đài Loan, nhưng họ không thể có tọa độ chính xác để tính toán ra đòn phản công. Trước sau thì họ cũng tìm ra ông thôi. Nhưng khi đó đã quá muộn.

 “Đồng chí Đô đốc. Mời đồng chí đến Trung tâm Thông tin Tác chiến.”

Lin Bảo tỉnh hẳn sau một cú gõ cửa nữa. “Đồng chí Đô đốc…” Ông mở toang cửa. “Tôi chưa gặp cậu bao giờ nhỉ,” ông nhin cậu thủy thủ trẻ măng, chắc chưa đến 19 tuổi, đang nhìn vị đô đốc thiếu ngủ. “Bảo họ,” ông húng hắng ho, “hãy báo với họ là tôi sẽ đến ngay.” Anh lính gật đầu và chạy dọc hành lang. Vừa mặc quần áo, Lin Bao cảm thấy áy náy vì đã to tiếng. Ông phải kiểm soát được cảm xúc của mình. Để nhân viên biết sức ép của mình, họ sẽ cũng bị sức ép. Trong ba tuần qua, sau khi biến mất, Nhóm tác chiến Trịnh Hòa cùng ba Nhóm tấn công nữa của Hải quân, cùng lực lượng đặc biệt của Lục quân, các máy bay ném bom chiến lược và tên lửa siêu vượt âm của không quân, đang xiết thành thòng lọng xung quanh Đài Loan như cách gọi của phương Tây. Mặc dù đang tàng hình, Lin Bao vẫn cảm nhận được bộ máy trinh sát toàn cầu khổng lồ của Mỹ đang dò tìm kiếm vị trí chính xác của mình.

Chiến dịch được Bộ trưởng Chiang vạch ra và Thường trực Bộ chính trị phê duyệt, sẽ được chia làm hai pha, mỗi pha đều theo một triết lý của Tôn Tử.

Pha một có thể gọi là “Tiểu lý tàng đao”, giữ kế hoạch bí mật như bóng đêm không thể xuyên thủng, chuyển động nhanh như tia chớp. Hạm đội biến mất bí ẩn sẽ nổi lên cạnh Đài Loan như một tia chớp. Chưa bao giờ Trung quốc thực hiến chiến dịch tàng hình với qui mô như vậy. Phải mất nhiều tuần, thậm chí tháng, để Mỹ hoặc các cường quốc khác tập trung được quân lực để đối phó.

Pha hai được thiết kế theo triết lý “Bất chiến tự nhiên thành”. Bộ trưởng Chiang tin rằng, bất ngờ phát hiện ra một lực lượng lớn kẻ thù ngay sát nách như vậy sẽ làm cho Nghị viện Đài loan hoảng loạn, bỏ phiếu tự giải tán và sau đó sát nhập vào đại lục. Khi trình bày với Bộ chính trị, Chiang cho rằng bao vây Đài loan bất ngờ như vậy sẽ chiếu hết mà không phải đổ máu. Mặc dù một số thành viên tỏ ra nghi ngờ, trong đó có Zhao Leji, một gương mặt gây khiếp sợ, Trưởng Ban kiểm tra Trung ương. Cuối cùng thì đa số vẫn ủng hộ Chiang.

Lin Bao vào trung tâm chỉ huy và thấy Bộ trưởng đã đợi trên màn hình. “Chào đồng chí Bộ trưởng. Rất vui được gặp đồng chí.” Từ khi Trịnh Hòa biến mất, họ chỉ liên lạc qua thư điện tử chức không nói chuyện trực tiếp. Giờ gặp lại, có vẻ căng thẳng, như người này đang thăm dò người kia.

“Tôi cũng rất vui được gặp đồng chí,” Bộ trưởng sau đó khen ngợi Lin Bao và các thủy thủ, không những đưa hạm đội tập kết vào vị trí chiến đấu an toàn, mà còn kịp sửa chữa các hư hỏng, sẵn sàng để chiến thắng lớn. Vân vân và vân vân. Càng nghe khen ngợi, Lin Bao càng cảm thấy không yên tâm.

Có gì đó đã xảy ra

“Đêm muộn hôm qua, Nghị viện Đài loan đã triệu tập phiên họp khẩn cấp, tôi chờ đợi họ sẽ bỏ phiếu tự giải tán vào mấy ngày tới.” Giọng ông nhỏ dần, gần như bị ngạt thở. “Chúng ta có vẻ như đang đi đúng kế hoạch…” Ông bóp sống mũi và nhắm mắt lại, rồi thở dài nặng nề và nói với giọng nhỏ hơn nữa. “Nhưng, có một chút trở ngại. Người Mỹ đã đe dọa sẽ dùng vũ khí nguyên tử, tôi hy vọng là đồng chí đã biết tin này.”

Lin Bao không biết gì. Ông liếc nhìn các sĩ quan phân tích tình báo ngồi bên. Suốt 12 giờ qua, hạm đội ẩn mình không liên lạc. Người thủy thủ trẻ lập tức dùng máy laptop thông dụng truy cập trang chủ của New York Times. Một dòng tiêu đề to nhất, đậm nhất: “TỔNG THỐNG TUYÊN BỐ: NẾU VƯỢT QUA LÀN RANH ĐỎ, CHÚNG TA SẴN SÀNG DÙNG VŨ KHÍ NGUYÊN TỬ”.

Lin Bao không biết nên trả lời Bộ trưởng thế nào. Ông đang nghĩ về việc bố trí tác chiến của Hạm đội Trịnh Hòa, nên cứ thế nói một cách cơ học. Ông xem xét lại độ sẵn sàng của thủy thủ, vị trí của các tàu hộ tống, nhiệm vụ của các tàu ngầm. Cứ thế nói. Bộ trưởng cắn cắn móng tay, rồi nhìn bàn tay, có vẻ không quan tâm lắm, trong khi Lin Bao thao thao các chi tiết kỹ thuật.

Bỗng Lin Bao thốt lên. “Thưa đồng chí, các kế hoạch của chúng ta vẫn ổn.”

Rồi nói tiếp. “Nếu nghị viên bỏ phiếu giải tán, người Mỹ không có lý do để tấn công ta. Họ không thể trơ trẽn đến mức tấn công ta vì một cuộc bỏ phiếu của người khác.”

Bộ trưởng gõ gõ vào cằm. “Có thể,” ông nói.

“Và nếu họ ra đòn, họ không thể tấn công hạm đội của ta. Họ không có thông tin tọa độ chính xác, kể cả cho vũ khí hạt nhân chiến thuật. Chúng ta chỉ cách bờ có vài hải lý và họ có thể gây thiệt hại lớn cho cảng và các công trình dân sự. Đó là sự tài tình trong kế hoạch của đồng chí. Bất chiến tự nhiên thành.”

Bộ trưởng gật đầu nhắc lại. “Có thể.” Giọng ông khàn, như thể cần một hớp nước. Màn hình tắt. Cuộc họp kết thúc. Nghị viện sắp phải bỏ phiếu. Người Mỹ đã vạch lằn ranh đỏ mà họ có thể sẽ hoặc không hành động. Lin Bao và đội của ông không làm được gì ngoài việc chờ đợi. Đã sáng sớm. Trên đường về phòng, ông kiểm tra đài chỉ huy. Thủy thủ của ông mặc dù còn trẻ và ít kinh nghiệm nhưng thực thi các nhiệm vụ của mình một cách thấu đáo. Họ hiểu nhiệm vụ họ đang thực hiện. Ngay sát đây, sau lớp sương mù là bờ biển Đài loan. Hạm đội của họ cũng ẩn trong sương mù. Mặt trời sắp lên và sương sẽ tan. Đài loan sẽ hiện ra, và họ cũng sẽ xuất hiện. Nhưng Lin Bao đang mệt, ông cần nghỉ ngơi.

Ông quay về phòng, nhưng không thể ngủ được. Ông lướt qua tủ sách và thấy cuốn “Nghệ thuật chiến tranh” của Tôn Tử, cuốn sách mà trớ trêu thay ông đọc lần đầu tại Học viện Hải quân Newport. Lần dở những trang sách được đánh dấu chi chít, ông nhớ lại sương mù ở Newport, dày đặc bám chặt bờ biển, những con tàu xuyên qua màn sương, hệt như sương mù ở đây. Tình cờ ông giở đến đoạn văn mà có lẽ ông đã quên mất trong những năm sau đó. Biết người, biết ta, trăm trận không thua. Nếu biết ta mà không biết người trận thua trận thắng. Nếu không biết người, không biết ta trận nào cũng thua.

Lin Bao nhắm mắt lại

Liệu ông có biết kẻ thù? Ông cố gắng nhớ lại tất cả những gì mình biết về nước Mỹ. Nhớ về những năm ông học ở đó, sống ở đó, về mẹ ông, một nửa của ông sinh ra ở đó. Nhắm mắt lại, ông có thể nghe thấy tiếng mẹ, hát ru ông thời thơ ấu. Các bài hát ru của bà, những bài hát Mỹ. Ông lẩm bẩm lại một bài, “Trên bến cảng – The Dock of the Bay”, giai điệu mà ông đã quá quen thuộc. Rồi ông ngủ thiếp đi.

21:37 MAY 21, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Buổi sáng trước khi công bố, bản sao tuyên bố của tổng thống đã được xem xét và cân nhắc qua rất nhiều cấp: Bộ Ngoại giao, Bộ quốc phòng, Bộ An ninh nội địa, Bộ Tài chính đều có đóng góp. Tổng thống còn tập dượt từ Ghế Nóng của Phòng Bầu dục, dưới sự chứng kiến của thư ký báo chí, cố vấn chính trị cao cấp và các thành viên của Hội đồng An ninh quốc gia, trong đó có Chow. Ông nghĩ bà có thần thái tốt, rất điềm tĩnh, vững vàng.

Tối đó, khi tổng thống lên đài phát biểu, Chow đang ngồi ở bàn làm việc, trong khi các đồng nghiệp vây quanh màn hình những chiếc TV đặt rải rác bên Cánh Tây. Chow không xem, tập mãi rồi, nên ông thấy không cần nữa. Chỉ đến khi nghe thấy tiếng ồ lên, ông mới để ý. Không ai, kể cả ông biết là tổng thống đã công bố ủy quyền tấn công hạt nhân. Trước khi họ kịp làm gì ngoài việc trố mắt nhìn TV, cửa Phòng Bầu dục bật mở. Một nhóm nhân viên ùa ra. Dựa vào thần thái của họ: mắt trống rỗng, nói chuyện thầm thì, thì có lẽ họ cũng bị bất ngờ. Chỉ có hai người vẫn bình thản, đó là Hendrickson và Wisecarver. Wise lôi Chow vào văn phòng mình, mới được chuyển đến sát phòng làm việc của tổng thống.

 “Vào đi, chúng ta sẽ xong việc trong 5 phút.” Wise đưa Chow qua cửa. Phòng của ông bừa bộn. Bức ảnh tốt nghiệp của đứa con trai đã mất được để cạnh bàn phím. Đây cũng là vật dụng cá nhân duy nhất giữa một đống lộn xộn hồ sơ giấy tờ. Mỗi tập hồ sơ là một chuỗi các chữ số mã hóa. Wise bắt đầu lôi từng tập hồ sơ cho Chow và Hendrickson tùy theo hành động nào mà Bộ quốc phòng cần phải thực hiện. Wise, một cao thủ về bàn giấy, dẫn cấp dưới của mình qua đám giấy tờ với sự nhiệt tình nhuần nhuyễn. Mỗi việc nhỏ mà ông giao cho Chow và Hendrickson dẫn đất nước thêm một bước nữa đến gần chiến tranh hạt nhân.

Trước khi Chow kịp hỏi gì, đã hết 5 phút. Cửa đóng sập lại. Chow và Hendrickson đã đứng ngoài với một mớ hồ sơ trong tay. “Anh có biết trước khi tổng thống phát biểu không?” Chow hỏi.

“Quan trọng gì nữa?”

Chow cũng không chắc lắm là có quan trọng không. Mặc dù ông nghĩ đó là cách mà Hendrickson trả lời, là thực chất ông ta đã biết trước. Điều đó cũng có lý vì ông ta là quan chức cao cấp của Bộ quốc phòng. Mà thực ra cũng không nên có nhiều người biết trước ngoài một nhóm rất nhỏ. Nhưng Chow vẫn cảm thấy bị lừa. Ông thấy khó chịu, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, có công bố bằng cách nào cũng khó mà cảm thấy dễ chịu với quyết định sử dụng vũ khí hạt nhân.

 “Chúng ta không thể nào thoát ra bằng cách đấy được,” Chow nói, cũng không rõ lắm là câu hỏi hay khẳng định. Mặc dù không biết trước về làn ranh đỏ của tổng thống, ông biết cũng đủ nhiều. Ví dụ ông biết về việc các lực lượng hải, lục, không quân Trung Quốc đang xiết vòng vây quanh Đài Loan, sẵn sàng đổ bộ. Để thực hiện điều đó, họ đã tiến hành một chiến dịch nghi binh che dấu sử dụng tổ hợp các công nghệ vẫn còn bí ẩn. Hạm đội Trung Quốc đã quá gần bờ, để có thể tấn công bằng vũ khí hạt nhân mà không gây ra các hậu quả phụ khủng khiếp.

“Họ phải tin là chúng ta sẽ làm như vậy.” Hendrickson nói, “Ba hàng không mẫu hạm của chúng ta đã được lệnh đến Biển Nam Trung hoa. Chúng ta cần thời gian. Nếu các tàu đó vào vị trí. Chúng ta có thể đe dọa Đại lục. Khi đó họ phải rút khỏi Đài Loan. Đe dọa thực sự tấn công hạt nhân sẽ cho chúng ta thời gian.

 “Nhưng cũng rủi ro bỏ mịa”

Hendrickson nhún vai. Ông không phản đối. Bắt đầu thu dọn đồ, cho các hồ sơ vào túi bảo mật. Ông cần quay về Lầu Năm góc. Chow đề nghị đi cùng. Ông đã mất cả đêm ở văn phòng, giờ cần tí khí tươi. “Tôi thấy, bạn anh, Hunt được giao chỉ huy Nhóm tác chiến Enterprise,” Chow gợi chuyện. Cả hai đã ra ngoài Cánh Tây, chỉ cách cổng kiểm soát của mật vụ vài bước. Trời trong đầy sao.

“Đúng, tôi biết.” Hendrickson trả lời, không nhìn về phía Chow, đi sang đường về phía công viê Lafayette.

“Có lẽ tốt cho cô ấy.” Chow mỉm cười nói.

“Tốt ư?” Hendrickson không cười, ông ta đứng đó, nhìn ra công viên rồi hướng lên trời. Như thể không biết là có nên bước về phía trước hay lùi lại. “Nếu chúng ta tấn công, bất kể là vì Đài Loan yêu cầu, hay vì người Trung Quốc tính toán sai, hay vì Wisecarver muốn thế, khả năng lớn là Sarah sẽ là người phải nhấn nút.”

Chow chưa nghĩ đến điều đó.

Khi Hendrickson định bước vào công viên, mật vụ giữ ông lại một chút. Cảnh sát thành phố đang xử lý một vụ việc trong công viên. Một ông già với bộ râu tan tác, đang kêu lên thất thanh “Tận thế!”. Ông ta vừa chui ra từ cái lều nhựa bẩn thỉu mấy phút trước. Tay cầm điện thoại mở vô lum hết cỡ. Chow nhận ra người đàn ông này. Ông ta là một thành viên của nhóm “Thức cho Hòa Bình”, phản đối tất cả các cuộc chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hạt nhân, từ năm 1981. Khi cảnh sát đè ông ta xuống, ông ta giẫy dụa ác liệt, xé quần áo, và tìm cách tiến đến cổng Nhà Trắng. Trong lúc đợi cảnh sát bắt xong người đàn ông, Chow nghe thấy một viên Mật vụ bên trong cổng lẩm bẩm: “Thằng điên…”

Sáng hôm sau, khi mở tablet xem tin, Chow tìm đến phần nói về vụ việc. Ông già đã được thả ra, nhưng bị kết tội duy nhất là làm rối loạn hòa bình thành phố.

Chow đóng máy lại, đọc nữa có vẻ vô ích.

10:27 JUNE 18, 2034 (GMT+8)

20 HẢI LÝ CÁCH BỜ ĐÀI BẮC

Lin Bao đứng trên bong tàu, nước mưa trượt theo những nếp gấp áo mưa của ông. Vào ngày đẹp trời, ông có thể nhìn thấy hình bóng thành phố ở phía xa. Còn bây giờ, mây mù đang che phủ tất cả. Bộ trưởng Chiang sắp hạ cánh. Mục đích chuyến đi chưa rõ lắm, nhưng Lin Bao hiểu đã đến lúc phải dứt điểm vụ căng thẳng với người Mỹ và Đài Loan. Ông tin rằng Bộ trưởng sẽ mang đến quyết định

Lin Bao nhận thấy một đốm sáng đang nhấp nháy từ xa.

Đó là máy bay của Bộ trưởng Chiang. Nó lắc lư ngật ngưỡng chui ra khỏi đám mây. Vài giây sau đã lăn bánh trên bong. Lin Bao hài lòng khi thấy phi công khéo léo bắt được 3 dây. Động cơ rú lên rồi lịm đi. Một lát sau, cầu thang phía sau hạ xuống và Bộ trưởng xuất hiện. Khuôn mặt tròn tươi cười nhìn máy bay hạ cánh trên bong. Chuyến thăm không được công bố, nhưng như một chính trị gia, ông bắt tay các nhân viên phục vụ mặt đất, mặc cho họ ngơ ngác ông này là ai. Lin Bao vội hộ tống ông đi, tránh sự phiền phức có thể xảy ra.

Hai người ngồi trên ghế băng trong phòng chỉ huy của Lin Bao, ngổn ngang các hải đồ. Trên bàn, một bản đồ Đài Loan 3 chiều đang quay. Anh lính cần vụ châm trà cho họ, rồi quay lưng vào tường, đứng nghiêm ưỡn ngực chờ lệnh. Bộ trưởng nhìn anh ta soi mói. Lin Bao vẫy tay cho anh đi.

Giờ chỉ còn hai người họ.

Bộ trưởng nặng nề thu người lại. “Chúng ta đang rơi vào bế tắc với kẻ thù…” ông bắt đầu.

Lin Bao gật đầu

“Tôi đã hy vọng Nghị viện Đài loan bỏ phiếu tự giải tán, và chúng ta tránh được phải đổ bộ. Giờ có vẻ khó rồi.” Chiang chiêu một ngụm trà và hỏi Lin: “Theo anh, tại sao người Mỹ lại dọa sử dụng vũ khí hạt nhân?”

Lin Bao không hiểu lắm câu hỏi. Có vẻ như hiển nhiên mà. “Họ làm chúng ta khiếp sợ, thưa đồng chí Bộ trưởng.”

“Hmm, vậy anh có sợ không?”

Bộ trưởng hơi thất vọng khi thấy Lin không trả lời.

 “Không việc gì phải sợ cả,” ông nói với cấp dưới. Theo ông, việc đe dọa dùng vũ khí hạt nhân không thể hiện sức mạnh của người Mỹ. Ngược lại, nó làm lộ rõ những yếu điểm của họ. Nếu Mỹ thực sự muốn đe dọa Trung Quốc, họ hẳn đã muốn mở một cuộc tấn công mạng qui mô lớn. Nhưng họ không thể thâm nhập được vào hệ thống hạ tầng của TQ. Quá trình tự do hóa kích thích sáng tạo và phát triển kinh tế Mỹ, giờ trở thành điểm yếu. Hệ thống hạ tầng của Mỹ bị phân rã, còn TQ thì không.

Chiang nói: “Người Mỹ đã không thể tổ chức phòng vệ chống tấn công mạng một cách tập trung. Chúng ta có thể cắt phần lớn lưới điện của họ chỉ bằng một cái gõ phím. Việc đe dọa hạt nhân là cổ lỗ và vô lý, chẳng khác gì dùng găng tay tát vào mặt người khác trước khi thách đấu súng. Giờ là lúc chúng ta cho họ biết chúng ta nghĩ gì về những đe dọa của họ.”

 “Chúng ta sẽ làm thế nào? Lin dùng điều khiển từ xa xoay xoay cái bản đồ Đài Loan. Ông dẹp mấy cái cốc ra để nhìn thấy tấm hải đồ rải trên bàn, cứ như họ đang thảo luận một cuộc điều binh.

“Chúng ta không làm gì ở đây cả,” Chiang trả lời, lơ đi hải đồ. “Chúng ta sẽ phản ứng ở phía bắc, trên Biển Barents. Hạm đội Ba và hạm đội Bảy Mỹ đã di chuyển về phía Nam để lại một khoảng trống. Những người bạn Nga của chúng ta đang có cơ hội tiếp cận thoải mái những đường cáp quang phục vụ Internet 10G ở Bắc Mỹ. Họ sẽ giúp chúng ta nhắc nhở nhẹ nhàng người Mỹ là ném bom không phải là cách duy nhất để khuất phục một dân tộc, thậm chí không phải là cách tốt nhất. Tôi cần đồng chí đơn giản là luôn sẵn sàng. Sẽ có một có một cuộc phô diễn sức mạnh mạng. Có kiểm soát. Chúng ta sẽ cắt vài cái cáp. Và đưa người Mỹ vào bóng đêm, để họ ngắm nhìn khoảng không. Sau đó, hoặc là Nghị viện sẽ mời chúng ta Đài loan, hoặc chúng ta sẽ tự đến. Trong mọi trường hợp, đồng chí phải sẵn sàng.”

 “Đồng chí bay đến đây chỉ để nói điều này thôi sao?”

“Tôi đến đây không phải để nói điều gì cả,” Chiang nhắc lại. “Tôi đến vì tôi muốn đứng ở bong tàu và tận mắt thấy các đồng chí thực sự đã sẵn sàng.”

Lin có thể cảm thấy bộ trưởng chăm chăm nhìn mình. Ông hiểu rằng những ngày tới sẽ thách thức sự chỉ huy của ông, dù là đưa quân tiếp quản hay tấn công lên bờ Đài Loan. Trước khi Bộ trưởng đưa ra nhận xét cuối cùng về sự sẵn sàng của Lin và cấp dưới, có ai đó gõ cửa. Trung tâm chỉ huy tác chiến có thông báo.

 “Chuyện gì vậy?” Bộ trưởng hỏi.

“Enterprise đang di chuyển.”

“Đến đây?”

“Không. Họ đi ngược lại. Thật khó hiểu.”

11:19 JUNE 18, 2034 (GMT+8)

220 HẢI LÝ NGOÀI KHƠI TRẠM GIANG

Vùng nước này là một cái nghĩa địa khổng lồ. Hunt biết là chiếc Enterprise đang đi trên biết bao nhiêu xác tàu đắm. Philippines đang ở phía đông. Phía tây là vịnh Bắc Bộ. Bà nhớ tên các con tàu: USS Princeton, Yorktown, Hoel, Gambier Bay… Và các tàu chiến Nhật bản, tuần dương và hàng không mẫu hạm. Hunt và thủy thủ đoàn lặng lẽ lướt qua để vào vị trí. Làm gì?

Hunt không biết.

Bà liên tiếp nhận lệnh. Cứ hai tiếng đồng hồ, bà được triệu tập lên phòng liên lạc. Một căn phòng cũ kỹ ở giữa tàu, mà một sĩ quan cấp cao có tên là Quint coi như phòng riêng của mình. Anh này có biệt danh Quint vì trông khá giống thuyền trưởng con tàu xấu số Orca, do Robert Shaw đóng trong phim Hàm Cá Mập. Làm việc cùng với Quint là một sĩ quan tùy tùng trẻ được gọi là Hooper không phải vì trông giống nhân vật của Richad Dreyfuss: Matt Hooper, một nhà hải sinh học can đảm, đeo kính cận, săn cá mập trắng, mà vì anh ta suốt ngày ở bên Quint.

Hunt, dù đã có kinh nghiệm nhận lệnh suốt đời quân ngũ, cũng dần dần quen với cách thông tin rời rạc này. Đối thủ Trung quốc chiếm thế thượng phong trong cuộc chiến mạng, đã cắt đứt Internet của Enterprise. Bộ chỉ huy Ấn Độ-Thái bình dương, nơi có kết nối trực tiếp với Nhà Trắng, phải liên lạc với bà bằng cách sử dụng các đợt sóng cao tần, bằng đúng băng thông đường dài mà Hải quân Mỹ đã dùng trong Thế chiến thứ Hai.

Mới có một thông báo mới. Hunt đi xuống 4 tầng từ phòng chỉ huy đến phòng liên lạc. Bà thấy Quint và Hopper giữa đám máy móc điện tử. Cặp kính tụt xuống mũi Quint trong lúc anh này lần mò những sợi dây, còn Hooper đang cầm một cái mỏ hàn bốc khói.

“Gentlement,” Hunt đánh tiếng.

Hooper giật mình, còn Quint vẫn ngồi yên, má xị xuống như đang kiểm tra hóa đơn ở nhà hàng. Anh tiếp tục chăm chú ngắm bó dây điện qua cặp kính của mình. “Xin chào buổi sáng, thưa Bà,” điếu thuốc chưa châm trễ xuống từ môi anh.

“Chiều rồi, Sĩ quan.”

Quint nhướn mày nhưng vẫn không rời mắt khỏi mớ dây nhợ. “Vậy chào buổi chiều.” Anh ta hất hàm ra dấu để Hooper đưa mỏ hàn, rồi nhanh nhẹn nối mối dây vào bo mạch. Suốt 2 tuần qua, Quint và Hooper làm việc để tích hợp các công nghệ radio cũ kỹ VHF, UHF và HF vào hệ điều khiển của phi đội F/A-18 Hornet trên tàu. Rắn Đuôi Kêu trở thành phi đội duy nhất miễn nhiệm với cuộc tiến công mạng. Ít nhất kế hoạch là như vậy.

 “Các anh còn phải cài đặt bao nhiêu bộ nữa?”

“Xong rồi, chúng tôi đã cài xong chiếc Hornet cuối cùng sáng nay. Cái này là cải tiến hệ thống HF của tàu chúng ta.” Quint im lặng chăm chú làm. “Cầm lấy,” một làn khói nhẹ bốc lên từ mỏ hàn mà anh đưa lại cho Hooper. Quint xiết lại ốc vỏ radio mà anh đang làm việc, rồi bật lên. Tiếng ồn ào từ máy thu được khuếch đại qua loa.

“Anh có thể vặn nhỏ xuống được không?” Hunt đề nghị.

Hooper nhìn Quint, anh này gật gật nhưng vẫn nghiêng đầu, giỏng tai lên như cao thủ đang lên lại dây đàn. Trong lúc Hooper loay hoay dò tầnsố, Quint ra hiệu lúc bằng tay trái, lúc bằng tay phải, lên xuống trong bậc thang tần số, như đang tìm cái gì đó, Hunt không biết. Cuối cùng, thấy sự tò mò của bà, Quint bắt đầu giải thích.

 “Chúng tôi đang tìm các tiếng vọng bị trễ lâu, thưa bà. LDE. Khi ta truyền tin trên tần số HF, sóng radio sẽ đi vòng quanh trái đất đến khi gặp máy thu. Trong một số trước hợp, khá mất thời gian, và ta nghe thấy tiếng vọng.”

“Lâu không?”

“Thường thì vài giây.” Quint nói

“Hôm qua chúng tôi bắt được mấy lần,” Hooper thêm vào.

Hunt cười. “Tiếng vọng lâu nhất mà các anh nghe được là bao lâu?”

Hunt không đáp trả nụ cười của Quint. Bà không thể ngăn mình hình dung lại những cảnh liên lạc bằng cách cổ điển như thế này: phi công bi rơi trên bầu trời Bắc Việt nam tìm cách liên lạc với hàng không mẫu hạm, những khẩu đội gọi máy bay Zeros tiếp viện ở Biển Philippines. Nhưng bà phải tập trung vào nhiệm vụ trước mắt.

Quint thò tay qua bàn với lấy miếng giấy chứa thông báo từ Bộ chỉ huy Ấn độ – Thái bình dương mà anh mới giải mã. “Họ không cho bà nhiều thứ để giải trí nhỉ?” anh nói.

Thông báo không hẳn là thông báo. Chỉ là 4 cặp kinh độ, vĩ độ. Một cái hộp trên bản đồ. Không có lệnh, không có thông tin. Hunt cần phải đưa Enterprise và các tàu hộ tống vào cái hộp đó và đợi lệnh tiếp. Bà đút miếng giấy vào túi và định đi. Quint dừng bà lại, dựa lưng vào tường “Thưa bà, chúng tôi mới sửa xong cái này, bà có thể dùng được.” Anh ta xòe trong lòng bàn tay một cái radio du lịch cũ. “Nếu chỉnh đúng, bà có thể nghe được được BBC, nhạc, tùy xem bà đang ở đâu. Dò đài đòi hỏi phải tinh vi một chút, nhưng tôi nghĩ chắc ổn thôi.”

Quint và Hooper vẫn đang loay hoay với máy thu khi Hunt đi ra. Quint ra dấu bằng tay, còn Hooper dò. Bà lên thẳng 4 tầng về phòng chỉ huy. Bà đặt một tập giấy với tọa độ trên bàn đã trải sẵn những tấm hải đồ. Rồi dùng compa, thước kẻ và bút chì gọt nhọn, xác định các góc tọa độ của hộp. Hơi nhỏ, nhưng đủ sức chứa cả Nhóm tàu tấn công của bà. Phía Nam vị trí hiện tại, 80 hải lý xa ra khỏi bờ, trong khoảng cách 300 hải lý chiếu thẳng từ Trạm Giang, chỉ huy sở của Hạm đội Nam Hải. Không biết bao nhiêu tàu của hạm đội còn ở trong cảng, khi cuộc khủng hoảng Đài Loan đang xảy ra. Bà nghĩ thầm.

Chắc không nhiều.

Nhưng vẫn đủ.

Bà đặt bút chì xuống và chỉnh radio. May mắn bắt được sóng của BBC. Khoanh tay trước ngực, duỗi chân, thả lỏng, bà thử hình dung bản tin: Tàu Enterprise tấn công quân cảng Trung quốc bằng vũ khí hạt nhân chiến thuật, nhưng không được. Có vẻ không khả thi. Không nhiều giới luật của chiến tranh lạnh còn tồn tại trong thế kỷ 21. Nhưng logic hủy diệt lẫn nhau vẫn còn nguyên giá trị. Kể cả là như vậy, nước bà không hưởng lợi thế gì nhiêu nếu hủy diệt Trạm Giang. Chuẩn bị điều chỉnh lại hướng di chuyển của tàu, Hunt vẫn cho rằng, lần này cũng như mọi lần khác, kể từ khi vũ khi hạt nhân ra đời, những toan tính rồi sẽ chỉ là toan tính, cuộc khủng hoảng sẽ hạ nhiệt. Bà hoàn toàn tin như thế.

Cảm giác đấy làm bà nhẹ nhõm đôi phần, khi ngả người trên ghế. Bà ngủ ngon độ một giờ, không mộng mị. Cái đài đã mất sóng, không chơi nhạc nữa. Chỉ có tiếng ù ù. Hunt thử dò lại sóng.

Đột nhiên bà nghe thấy gì đó. Một giọng nói rất nhẹ, không rõ ràng. Xuất hiện rồi biến mất.

Đó là những bóng ma.

14:22 JUNE 24, 2034 (GMT+2)

BIỂN BARENTS

Ở cực bắc, mặt trời chiếu gần như 24h một ngày. Trời trong xanh, ấm bất ngờ. Không thấy hạm đội Mỹ đâu. Có lẽ họ đã rời đi. Liên Bang Nga biết là đang kiểm soát vùng nước này. Không phải căng thẳng đối phó rình rập với người Mỹ, các thủy thủ của Rezkiy và các tàu khác trong hải đội bắt đầu vui chơi. Từ tuần dương hạm Pyotr Velikiy, thủy thủ hạ xuồng cứu hộ, rồi lao vào tắm nước biển lạnh giá. Thuyền trưởng hàng không mẫu hạm Kuznetsov thì cho phép thủy thủ tắm nắng ngay trên bong dù trời lạnh. Trên Rezkiy, Kolcak cho chơi nhạc pop qua hệ thống loa nội bộ trong giờ dọn dẹp vệ sinh, chủ yếu là Elvis, Jonas Brothers và tất cả những gì thuộc Shakira. “Hips Don’t Lie” là bản được yêu thích nhất.

Một chút vô kỷ luật, cùng với tính phiêu lưu của đời thủy thủ kích động thiếu tá Farshad. Nhiệm vụ sĩ quan liên lạc của ông đơn giản là có mặt, để chứng minh sự chung thủy giữa hai dân tộc, mặc dù cả hai chưa bao giờ thể hiện sự chung thủy với ai đó ngoài chính bản thân mình. Farshad đã một lần chia sẻ tâm sự này với Kolchak trong nhà ăn. Anh này hỏi lại: “Liệu một dân tộc có cần chung thủy với ai ngoài chính mình không?” Farshad đành phải công nhận.

Không lâu sau cuộc nói chuyện đó, Farshad đang đứng trên cầu tàu thì đài quan sát phát hiện một đàn cá mập ở bên mạn tàu. Kolchak lúc đó đang điều khiển đài quan sát, tỏ ra rất hứng thú, thậm chí điều chỉnh để tàu chạy theo đàn cá trong mấy phút. “Tuyệt vời,” Kolchak nói, ngây người nhìn những cái vây lưng uyển chuyển. Như cảm thấy Farshad ngơ ngác, anh giải thích: “những con cá mập này bị sóng điện từ từ các cáp quang ngầm thu hút. Những cáp này nối với Bắc Mỹ. Cá mập thì rất thích nhai cáp. Thế là chúng ta có cớ để phủ nhận tất.”

Cắt vài đường dây dưới biển, làm chậm Internet đi 60% sẽ gửi một thông điệp mạnh mẽ tới Mỹ. Kolchak nói với Farshad như vậy. Thế là đủ để hạ nhiệt cuộc khủng hoảng. Khi cần phải thực tế, để bảo vệ quyền lợi của dân tộc, Farshad cảm thấy chỉ có nước ông, và có thể là Nga nữa có tư duy mạch lạc. Người Nga cũng như ông biết rằng mọi thứ làm nước Mỹ yếu đi đều có lợi. Hạ nhiệt bây giờ không có lợi cho cả Iran và Nga.

Họ cần loạn lạc

Họ cần trật tự thế giới thay đổi.

Đàn cá mập biến mất dưới làn nước. Rezkiy và các tàu trong hải đội dừng lại trên vùng nước chứa cáp 10G trong suốt thời gian còn lại trong ngày. Không khí làm việc khẩn trương. Farshad lang thang trên cầu tàu, trong lúc Kolchak và thuyền trưởng trao đổi sôi nổi bằng tiếng Nga. Thỉnh thoảng Kolchak dừng lại và dịch cho ông.

“Chúng ta sẽ lượn loanh quanh đây,” Kolchak nói, chỉ tay vào màn hình máy tính. “Pyotr Velikiy sẽ thả thiết bị lặn có điều khiển để gắn một khối thuốc nổ cắt cáp.”

“To không?” Farshad hỏi

Viên thuyền trưởng hạ ông nhòm xuống, quay lại nhìn hai người lo lắng.

“Đủ để làm việc” Kolchak nói

Thuyền trưởng nhăn mặt, rồi có tiếng liên lạc bằng tiếng Nga. Kolchak cầm ống nghe và trả lời ngay, thuyền trưởng quay lại ống nhòm tiếp tục quan sát mặt biển. Pyotr đang thu hồi thiết bị lặn. Thuốc nổ đã được đặt xong. Kuzetsov chở đầy máy bay án ngữ đường chân trời. Kolchak nhìn kim đồng hồ cũ kiên trì quay và chờ đợi.

Rồi một tiếng nổ. Một cột nước vọt lên từ đáy biển. Rồi âm thanh gây sốc, như một cái tát. Cả tàu rung lên. Nước đổ xuống mặt biển trắng xóa. Lại có tiếng bộ đàm. Giọng nói có vẻ phấn khích, vui mừng. Thuyền trưởng trả lời cũng bằng giọng đó. Người duy nhất không hài lòng là Farshad, ông không hiểu. Ông nắm khuỷu tay Kolchak: “Các anh đã cắt không phải là 1,2 sợi cáp đúng không?”

“Có lẽ thế,” Kolchak không cười nữa.

“Có lẽ?” Farshad cảm thấy cơn giận dữ từ trong ngực ông lan ra chân tay. Ông cảm thấy bị lừa. “Một vụ nổ như vậy chắc phá hủy hết tất cả rồi.”

“Thì sao, nếu đúng là như vậy? Mỹ – Trung hạ nhiệt có lợi gì cho chúng tôi đâu. Mà cũng chẳng lợi gì cho các ông. Để xem điều gì sẽ xảy ta. Ai biết được, khi đó cả hai nước chúng ta đều có lợi…” chuông cảnh báo va chạm rung lên trước khi Kolchak dứt lời.

Đài chỉ huy liên tiếp ra lệnh, thay đổi vận tốc, hướng đi. (“Bánh lái sang phải, tăng tốc tiến trái!”) trong lúc Farshad và Kolchak quan sát phía trước mũi tàu. Đầu tiên ông không nhìn thấy gì có thể gây ra va chạm. Không có tàu khác. Không có băng trôi. Không có vật gì to lớn để gây ra thảm họa. Chỉ có bầu trời trong xanh và đám bụi nước vẫn còn vương trong không khí sau vụ nổ.

Chính đám bụi hóa ra là vật cản. Nhưng không phải bụi nước. Cá mập, rất nhiều, chen nhau nổi lên như có quá nhiều táo ở trong thùng, phơi bụng dưới ánh mặt trời. Con tàu vẫn đang luồn lách. Farshad chẳng làm được gì. Ông chỉ mang danh là thủy thủ, không thể giúp con tàu tránh được va chạm. Rezkiy đâm xuyên qua mênh mông là cá chết, thân thể chúng đập vào mạn tàu, gợi ông nhớ đến tiếng băng va làm ông không ngủ được: dong, dong, dong. Sau đó là một luồng tiếng ồn, gắt hơn nhiều, như một mớ xẻng kim loại xé qua thùng rác, đám xác cá mập bị cánh quạt bánh lái của Rezkiy xé nát.

Farsahd đi theo Kolchak xuống cầu chỉ huy. Họ ra đuôi tàu để đánh giá thiệt hại. Đám bụi nước vẫn còn trong không khí. Ánh mặt trời xuyên qua thành hình cầu vồng. Xanh, Vàng, Cam, Đỏ.

Rất nhiều đỏ.

Farshad nhận ra rằng đỏ không chỉ ở trông không khí. Mặt nước đỏ lòm. Rezkiy hư hại nhẹ, tiếp tục tiến tới, để lại phía sau một biển máu.

21:02 JUNE 26, 2034 (GMT+8)

300 HẢI LÝ NGOÀI KHƠI TRẠM GIANG

Bờ Đông bị cắt hoàn toàn khỏi Internet. Dung lượng giảm 80% ở Miền Trung Tây. Bờ Tây chỉ còn 50%. Cắt điện cả nước. Các sân bay đóng cửa. Thị trường hỗn loạn.

Hunt nghe tin cập nhật từ BBC qua chiếc radio mà Quint đưa cho bà. Ngay lập tức bà hiểu sự nghiêm trọng của vấn đề. Bà đi xuống phòng liên lạc, nơi Quint cũng đang nghe đài và đợi bà.

“Có gì mới không?” bà hỏi.

“Chưa có gì”

Hooper không có đấy. Cậu ta đang ngủ, và Hunt thấy hài lòng vì chỉ có mình và viên sĩ quan chỉ huy. Bà biết thông báo mà bà đang đợi, và bà mong càng ít người xung quanh khi bà nhận được nó càng tốt. Cảm giác nhận lệnh như vậy trước những thế hệ trẻ hơn như Hooper thật là khó chịu. Có thể là vì họ sẽ phải chịu đựng hậu quả lâu hơn bà. Đó là suy nghĩ của Hunt khi bà ngồi trong căn phòng nhỏ, cùng với Quint, lắng nghe các âm thanh nền của máy thu HF, đợi lệnh.

Cuối cùng, thông báo cũng đến.

10:47 JUNE 26, 2034 (GMT-4)

WASHINGTON, D.C.

Chow không ở trong phòng khi họ ra quyết định. Ông luôn lấy đó để an ủi cảm giác tội lỗi của mình về những việc xảy ra sau đó. Nhiều năm sau, ông sẽ có cơ hội tốt hơn để tưởng tượng lại những cuộc thảo luận trong Phòng Tình huống dưới ánh đèn mờ từ máy phát điện. Ông có thể hình dung quan điểm của Trent Wisecarver, của các bộ trưởng, các tướng lĩnh, những cân nhắc thiệt hơn về việc họ sẽ phải cam kết thực hiện khi tổng thống vạch ra “làn ranh đỏ” thách những đối thủ ở Bắc Kinh bước qua nó.

Có vẻ như Bắc Kinh đã bước qua làn ranh đó, theo một cách mà ít ai ngờ tới: cắt cáp ngầm và gây rối loạn internet. Vấn đề là đáp trả thế nào. Chắc là phải rất nhanh. Chow hình dung Wise diễn thuyết về lợi ích của nước Mỹ bị xâm phạm, Bộ tổng Tham mưu Liên quân đưa ra các phương án (và có thể chẳng có phương án nào) và tổng thống ra lệnh sử dụng vũ khí hạt nhân. Chow không cần tưởng tượng tiếp vì ông đã thấy những nhân vật chính ra khỏi Cánh Tây, điệu bộ nghiêm túc khắc khổ không nói lên gì về những quyết định họ mới đưa ra, thậm chí bản thân họ cũng chưa hiểu biện minh thế nào cho sự phá hủy họ đã thả ra. Liệu họ có hiểu được không?

Sau khi giao việc, Wise quyết định luân chuyển công việc giữa các thành viên hội đồng an ninh, và Chow được về nhà, sáng mai có mặt. Ông chờ đợi đòn tấn công sẽ diễn ra vào buổi đêm. Và tất nhiên sẽ có phản đòn từ Bắc Kinh. Các nhân viên đều phải sẵn sàng. Khi Chow lái xe về nhà, các khu phố vẫn mất điện. Chỉ độ một nửa đèn giao thông làm việc. Nửa còn lại hoặc tắt ngóm hoặc lập lòe vô nghĩa vào những con phố vắng. Vài ngày nữa là rác sẽ ngập lên. Ông bật đài và chỉ nghe thấy tiếng lạo xạo

Ông lái xe trong im lặng và suy nghĩ.

Ông quay đi quay lại với ý nghĩ đó suốt đêm. Khi ăn tối với mẹ và Ashni. Khi bế con lên giường, hai tay nó quàng quanh cổ ông nặng như hai sợi dây thừng, khi ông chúc mẹ ông ngủ ngon và bà phá lệ hôn ông lên trán, và áp tay vào má ông, cử chỉ mà đã lâu lắm bà không làm. Ý nghĩ đó là: làm thế nào để đưa gia đình đến chỗ an toàn.

Chow biết chỗ đó. Đấy không phải là hầm tránh bom (nếu có những cái hầm như vậy), cũng không phải là ngoại ô (mặc dù đó có thể là khởi đầu đúng). Không, ông kết luận, không đủ.

Ông biêt ông phải làm gì

Ông biết phải gọi cho ai.

Trong căn nhà yên tĩnh, mẹ và con gái đang ngủ, nên ông phải thì thầm. Ông nhấc điện thoại và bấm số. Đầu dây kia trả lời ngay lập tức.

 “Đô đốc Anand Patel đang nghe”

Chow lặng người đi

“Hello? Hello?”

“Chào bác, cháu Sandeep đây.”

13:36 JUNE 27, 2034 (GMT+8)

300 HẢI LÝ NGOÀI KHƠI TRẠM GIANG

Một quầng sáng bừng lên ở chân trời. Sarah Hunt sẽ luôn nhớ đến quầng sáng đó.

11:15 JUNE 30, 2034 (GMT+8)

SÂN BAY ĐÀO VIÊN, ĐÀI BẮC

Lin Bao tưởng là ông đã hiểu họ, hóa ra không phải.

Nếu ông đã từng nghĩ mình là một nửa gốc Mỹ, thì giờ ông không nghĩ thế nữa. Nhất là sau những gì họ đã làm ở Trạm Giang ba ngày trước. Mỗi thành viên thủy thủ đoàn đều có người thân đã mất ở đó, ai cũng có gia đình ở trong bán kính của vụ nổ. Vô khối các bạn bè của ông, từ thời đi học, hay phục vụ ở các tàu khác, hay ba người anh em họ chẳng liên quan gì đến hải quân nhưng sống ở đó, đều đã biến mất trong vụ nổ đó. Những người khác không được gặp may như vậy. Lin Bao không dám tìm hiểu chi tiết, nó quá đau xót. Nhưng ông biết là các bệnh viện ở Bắc Hải, Mao Minh, Yên Giang và xa hơn nữa là Thẩm Quyến đều đầy nhóc những nạn nhân.

Nếu người Mỹ ra đòn nhanh và quyết đoán ở Trạm Giang, TQ cũng tấn công Đài Loan như vậy. Mặc dù đó chưa phải là đòn trả thù vụ nổ 150 kiloton. Lin Bao được điều khỏi tàu để đón Bộ trưởng Chiang sắp đến để họp bàn việc đáp trả. Ông ngồi trong phòng chờ thương gia của British Airway. Những tấm kính từ sàn đến trần cho phép ông quan sát sân bay tấp nập mặc dù các chuyến bay dân sự đã bị cấm. Các máy bay vận tải và quân sự liên tục cất hạ cánh. Bộ trưởng Chiang xuất hiện dưới sự hộ tống của một đội an ninh hùng hậu. Ông thanh minh cho sự chậm trễ của minh: “Họ quá lo lắng bảo vệ tôi,” và phá lên cười lo lắng hướng về đội bảo vệ vẫn trơ trơ của mình.

Bộ trưởng Chiang đưa Lin Bao đi cùng đến phòng hội nghị, một căn phòng kính sạch sẽ được thiết kế cho các thương gia họp giữa các chuyến bay. Họ ngồi cạnh nhau ở một đầu bàn dài. Lin không thể không nhận thấy Bộ trưởng không mặc quân phục như thường lệ, mà một bộ đồ ngụy trang còn nguyên những nếp nhăn mới lấy ra khỏi bao. Cũng như Lin, bộ trưởng thi thoảng lại nhìn ra sân bay, ngầm sướng khi thấy những đội quân của mình được chuyển đến và tỏa khắp hòn đảo, cuối cùng cũng đã phải quy hàng.

Nhưng khi quay lại hội nghị, ông trở nên nghiêm nghị. Ông bắt đầu phùng má, cứ như là làm thế cho hàm chuyển động theo. Cuối cùng, ông nói: “Vị thế của chúng ta đang càng ngày càng bấp bênh. Chúng ta có thể có 1 tuần, nhiều nhất là hai tuần, trước khi hạm đội Mỹ tiến đến đủ gần để chúng ta không tự do ra biển được nữa. Điều đó không thể chấp nhận được. Họ sẽ bóp cổ ta, như ta bóp cổ hòn đảo này. Nếu không có đường ra biển, cả đại lục sẽ bị đe dọa, chưa nói đến việc tấn công hạt nhân. Người Mỹ đã bước qua ngưỡng. Một khi họ đã ném quả bom nguyên tử đầu tiên, sẽ không còn nhiều thứ ngăn họ ném quả thứ hai, thư ba. Đã đến lúc chúng ta phải quyết định.”

Bộ trưởng nói rất nghiêm túc, làm Lin Bao hơi lúng túng trước khi trả lời. “Có lý do gì-” Lin cố gắng tìm từ  để miêu tả bản chất của cuộc họp này, hơi khó hiểu, tại sao Chiang lại triệu tập ông ra khỏi tàu, đến đây, phòng khách thương gia của British Airways, nơi ông cảm thấy như một người xa lạ – “ý tôi là lý do của cuộc họp này?”

Bộ trưởng chúi người về phía trước, ân cần đặt tay lên tay Lin. Sau đó ông nhìn ra ngoài, nhìn đội an ninh của mình, như muốn đội quân áo vét sẫm đó chứng kiến cử chỉ của mình. Và Lin thấy họ chú ý thật. Ông bắt đầu hiểu ra ẩn ý của cuộc gặp mà Chiang thừa nhận “cuộc họp” của họ là “cuộc họp của hai người”.  Tất nhiên, Chiang có thể mời tướng lục quân khô khan, người đang điều quân đi khắp Đài Bắc, chiếm giữ các vị trí quan trọng như đài phát thanh, truyền hình, và nhà máy điện, cũng như tập hợp đội quân tuyên truyền. Chiang cũng có thể mời chỉ huy không quân, một viên tướng kỹ trị, đang điều hành mạng lưới hậu cần khổng lồ, trong lúc vẫn giữ các máy bay chiến đấu cảnh giác với bất cứ một sự kháng cự nào. Nhưng mời ai trong họ cũng sẽ gây xáo trộn công việc họ đang làm. Thêm vào nữa, Chiang giải thích, ông không tin lắm là họ “có đủ năng lực cho những gì sắp đến.”

Vậy điều gì sắp xảy ra?

Khi Lin hỏi, Chiang bỗng thận trọng một cách bất ngờ. Ông khoanh tay trước ngực, hơi quay sang bên, để có thể quan sát Lin từ khóe mắt, như để xác nhận có phải ông đã đánh giá đúng Lin ngay từ đầu.

“Có vẻ như tôi sẽ bị gọi về Bắc Kinh” bộ trưởng nói, rồi lại nhìn ra ngoài phòng, nơi đội bảo vệ đang đứng. Những người này bảo đảm chắc chắn là ông sẽ phải quay về, dù ông có muốn hay không. “Sau những gì ở Trạm Giang, có một số ý kiến cho rằng chúng ta đã tính toán sai đòn đáp trả của Mỹ.” Ông chăm chú nhìn xem Lin Bao có phản ứng gì về lời buộc tội này không. “Cả trong và ngoài Thường vụ Bộ Chính trị đang buộc tội tôi. Âm mưu như vậy không có gì bất ngờ cả. Kẻ thù của tôi thấy điểm yếu và họ tấn công. Họ cho rằng, tôi đã quá ngây thơ tin vào các đồng minh không tin cậy ở Biển Barents, hay đánh giá điểm yếu nhất của tổng thống Mỹ chính nỗi sợ tỏ ra yếu kém. Tôi không thể lên được đến chức này nếu không sở hữu những trực giác giúp tôi vượt qua những âm mưu như vậy. Và trực giác mách tôi tìm đến anh, đô đốc Lin Bao. Đó là lý do tôi ra quyết định để anh thay thế Ma Qiang. Và bây giờ tôi cần anh hậu thuẫn, không chỉ chống lại kẻ thù bên ngoài mà cả đối thủ bên trong.”

“Đúng, cho những điều sắp xảy ra.”

Nhưng Lin không biết điều gì sẽ xảy ra. Có thể là họ sẽ giữ Đài Bắc và đàm phán với người Mỹ. Trạm Giang là cái giá để họ có thể sát nhập Đài Loan. Ông nói điều này với bộ trưởng Chiang, nhắc lại chiến lược ban đầu là hạ nhiệt, theo kế sách “Bất chiến tự nhiên thành” của Tôn Tử.

Một viên sĩ quan an ninh áo vét sẫm tiến tới gõ lên cửa kính bằng ngón giữa. Anh ta chỉ tay lên đồng hồ. Đã hết giờ.

Bộ trưởng Chiang đứng dậy, vuốt lại đồng phục phủ lên cái eo mềm mại của ông. Cố gắng hết sức để giữ phẩm giá, ông giơ một ngón tay lên cho viên sĩ quan thiếu kiên nhẫn, đề nghị chờ thêm tí nữa. Rồi quay sang Lin Bao, đặt tay lên vai ông: “Đúng, chúng ta đều biết một chút về Tôn Tử. Ông là bậc thầy của chiến tranh bất đối xứng, về việc chiến thắng không cần đánh. Nhưng ông cũng dạy chúng ta: nếu khó khăn, hãy dấn tới. khi bị bao vây, hãy nghĩ mưu.”

Viên sĩ quan an ninh mở cửa xông vào, ngắt lời họ.

Ánh mắt bộ trưởng lóe lên, rồi dừng lại kiên định ở Lin Bao: “khi đường cùng, phải đánh.”

Rồi cũng bất ngờ như lúc xuất hiện, bộ trưởng rời đi

Nguyễn Thành Nam (dịch giả)

Founder FUNiX là một trong 13 công thần sáng lập ra Tập đoàn FPT. Với chiến công lớn trong việc khai phá và phát triển xuất khẩu phần mềm cho Tập đoàn, anh Nam từng giữ chức CEO kiêm Chủ tịch HĐQT của FPT Software, kế đến là CEO FPT.

Nhắc đến “Nam già”, người ta nghĩ ngay tới vị thủ lĩnh phong trào của FPT, đồng thời là nhân vật biểu trưng cho văn hóa STCo FPT. Suy nghĩ khác người, nhiều mơ mộng, dí dỏm một cách thông thái và đặc biệt rất sáng tạo, anh Nam là dị nhân hàng đầu ở FPT. Với gần 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực phần mềm và quản lý, hiện anh Nam vẫn được tín nhiệm ở vai trò Cố vấn sáng tạo FPT.

Nếu bạn thấy hay, vui lòng chia sẻ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *